Chúa Giê-su đã truyền dạy: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15). Sứ mạng loan báo Tin Mừng là trách nhiệm không thể chối từ của mọi Ki-tô hữu, bất kể hoàn cảnh, môi trường hay đối tượng nào.
Trong thời đại toàn cầu hóa, làn sóng di dân đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, đặt ra nhiều thách đố cho xã hội và Giáo Hội. Trước thực trạng đó, Giáo Hội luôn quan tâm đến những anh chị em di dân – những người thường sống trong cảnh nghèo khó, bấp bênh, bị bỏ rơi hoặc xem như xa lạ nơi xã hội. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo khẳng định rõ: “Mỗi người tín hữu có sứ mạng trở thành chứng nhân của Đức Kitô trong mọi hoàn cảnh” (GLCG 849). Việc loan báo Tin Mừng là con đường đi ngang qua con người, và vì con người.
Kinh Thánh cho thấy di dân là một thực tại xuyên suốt lịch sử cứu độ: dân Israel từng sống kiếp tha hương nơi Ai Cập; Thánh Gia cũng từng là người di cư khi phải trốn sang Ai Cập để bảo vệ Hài Nhi Giê-su khỏi tay Hêrôđê; và Đức Giêsu cũng tự đồng hóa mình với những người đói nghèo, khách lạ… (x. Mt 25,35). Chính vì thế, đứng về phía người di dân là chọn lựa Tin Mừng của Giáo Hội, là ưu tiên cho người nghèo – những người dễ bị tổn thương nhất.
Sự chọn lựa này tuy đẹp nhưng không dễ dàng, bởi con người hôm nay đang mắc phải căn bệnh “vô cảm” – sống ích kỷ, thờ ơ, chỉ quan tâm đến bản thân mà không nhìn thấy nỗi đau của tha nhân. Đức Thánh Cha Phanxicô từng cảnh báo: “Dửng dưng và im lặng trước thảm cảnh người di dân và tị nạn là mở đường cho sự đồng lõa”.
Trong hoàn cảnh đó, truyền giáo cho người di dân trở thành một sứ mạng quan trọng và cấp bách. Họ là đối tượng mục vụ hàng đầu mà Giáo Hội mời gọi chăm sóc, không chỉ bằng lời rao giảng mà còn bằng sự tiếp đón, phục vụ và yêu thương. Đặc biệt, nơi các họ đạo – môi trường sống và làm việc trực tiếp của người di dân, cần có những chương trình mục vụ cụ thể để đồng hành, hỗ trợ và hướng dẫn họ sống đức tin.
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cũng nhấn mạnh trách nhiệm này: “Hội Thánh nhìn nhận bổn phận chăm sóc và bảo vệ những người di cư, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương nhất. Các cộng đồng địa phương, cụ thể là các giáo xứ, phải đảm bảo rằng những người di cư được chào đón như những anh chị em trong Đức Kitô” (GLHTCG, số 2241).
Để thực hiện điều đó, cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng và liên kết giữa các linh mục, tu sĩ và giáo dân. Việc đào tạo cần mở rộng kiến thức về di dân, đồng thời lồng ghép chiều kích thần học và mục vụ về di dân vào chương trình huấn luyện. Cộng đoàn cũng cần được hướng dẫn để thay đổi nhận thức, loại trừ thái độ kỳ thị, thờ ơ, dửng dưng – những điều cản trở việc loan báo Tin Mừng.
Không chỉ với người di dân Công giáo, Giáo Hội cũng kêu gọi phục vụ cả những người di dân không cùng niềm tin. Mỗi Kitô hữu được mời gọi vượt qua ranh giới của ngôn ngữ, văn hóa, quốc gia, sắc tộc, tôn giáo… để đem lòng bác ái của Đức Kitô đến cho mọi người, nhờ đó góp phần xây dựng một gia đình nhân loại chan hòa yêu thương và công bằng hơn.
Riêng đối với các tu sĩ – những người bước theo sát Chúa Giê-su – sứ mạng ấy lại càng rõ ràng và cấp bách hơn. Chúng ta được mời gọi lên đường đến với vùng ngoại biên, với những người bị bỏ quên, sống ngoài lề xã hội, để hiện diện, sẻ chia và làm chứng cho Tin Mừng bằng chính đời sống yêu thương và phục vụ của mình.
Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con luôn ý thức rằng: sứ mạng loan báo Tin Mừng là trách nhiệm cao quý của mỗi người môn đệ Chúa, bất kể đang ở vị trí hay vai trò nào trong Giáo Hội. Xin cho chúng con biết ra đi, đến với anh chị em di dân – những người nghèo, người lạ, người bị bỏ rơi – để qua việc phục vụ họ, chúng con phục vụ chính Chúa.
Nguyện xin ánh sáng Tin Mừng của Chúa tiếp tục soi dẫn chúng con trên hành trình dấn thân, để chúng con sống trọn vẹn vai trò và ơn gọi của người được sai đi, đem tình yêu và hy vọng đến cho muôn dân.
Nt. Maria Lâm Trang