KITÔ GIÁO LÀ GÌ?
Tác phẩm cuối cùng, như một di chúc thiêng liêng[1]
Tác giả: Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI
Chuyển ngữ: Giuse Phan Văn Phi, O.Cist.
Một vài cảm nhận về tác phẩm
“Cuốn sách “Kitô giáo là gì?” mà Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI muốn chỉ được xuất bản sau khi ngài đã qua đời. Trong những năm ngay sau Công đồng Vaticanô II, với tác phẩm Nhập môn Kitô giáo, đã giới thiệu với công chúng, một nhà thần học trẻ trung lỗi lạc người Đức, Joseph Ratzinger. Ngày hôm nay, vào lúc cuối đời, và với tư cách là nguyên Giáo hoàng, Đức Bênêđictô XVI truyền lại tác phẩm này như một di sản cho tất cả mọi người để chia sẻ những suy tư mới nhất của ngài về một số chủ đề căn bản của Kitô giáo.
Ở trọng tâm của cuốn sách chính là lòng thương xót của Thiên Chúa, được nảy sinh từ tình yêu say mê dành cho mọi loài thụ tạo. Để phụng sự Thiên Chúa, các linh mục được mời gọi ứng trực trước sự hiện diện của Thiên Chúa và làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. Tiếp đến là các chủ đề đối thoại với các tôn giáo khác, với người Do Thái, với dân của lời hứa, với đức tin Kitô giáo, và với thế giới. Tuy nhiên, cuộc đối thoại này không thể bỏ qua những nội dung trọng tâm của tín biểu: Con Thiên Chúa nhập thể làm người, niềm tin vào sự chết và sự Phục sinh của Đức Giêsu, tin vào sự hiện diện đích thực của Chúa trong bí tích Thánh Thể, sự hiệp thông huynh đệ trong Giáo hội, những chủ đề trọng tâm của luân lý Kitô giáo.
Như phụ đề của cuốn sách đã nêu rõ, tập sách này gần như một di chúc thiêng liêng, được viết bởi một bậc thầy khôn ngoan và tâm huyết, luôn quan tâm đến những mong đợi và hy vọng của các tín hữu. Trong những năm sống ẩn dật tại Đan viện Mẹ Giáo hội [Mater Ecclesiae], ở nội thành Vatican, lời cầu nguyện và sự hiện diện âm thầm của ngài chính là một sự hỗ trợ quan trọng cho đời sống Giáo hội. Từ Đan viện đó, ngài quan sát thiên nhiên một cách đầy nhân ái, như một tấm gương phản chiếu tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa, Đấng từ đó chúng ta xuất phát và chúng ta đang tiến về cùng Người. Cũng từ Đan viện đó, Đức nguyên Giáo hoàng hướng về nước Đức quê hương của mình, rồi ngài hướng tới nước Ý, nơi ngài đã trải qua phần lớn cuộc đời mình, ngài hướng tới nước Pháp, nơi đã chào đón ngài vào Hàn Lâm viện Pháp, ngài hướng tới toàn thể Âu châu. Với những quốc gia Âu châu này, Đức nguyên Giáo hoàng tâm sự, bằng một giọng yếu ớt [vì tuổi tác] nhưng cũng đầy nhiệt huyết, lời yêu cầu của ngài là đừng bao giờ từ bỏ di sản Kitô giáo, vốn là di sản quý giá dành cho toàn thể nhân loại này. Trong cuộc sống, không phải lúc nào Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI cũng được mọi người thấu hiểu. Tuy nhiên, không ai có thể phủ nhận sự sáng suốt trong các suy tư của ngài, cũng như sức mạnh trong các lập luận của ngài, điều mà tác phẩm mới nhất này đã kết hợp một cách xuất sắc tuyệt vời.” — Nhà xuất bản Mondadori
“Sau khi Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI từ chức giáo hoàng vào năm 2013, ngài tiếp tục suy tư và viết lách. Gần cuối đời, ngài cùng với biên tập viên Elio Guerriero, đã tập hợp thành một tuyển tập tài liệu mới, đề cập đến những chủ đề gần gũi nhất với tâm hồn ngài. Đức nguyên Giáo hoàng đề nghị rằng, cuốn sách này sẽ chỉ được xuất bản sau khi ngài đã qua đời mà thôi.
“Kitô giáo là gì?”, tác phẩm cuối cùng này đề cập đến một loạt các chủ đề đa dạng phong phú: như mối liên hệ giữa đức tin Kitô giáo với các tôn giáo khác, đặc biệt là đối với Do Thái giáo và Hồi giáo; thần học và cải cách phụng vụ; chức linh mục; các vị thánh; Bí tích Thánh Thể; bi kịch lạm dụng; vẻ đẹp của thiên nhiên; nền văn hóa của nước Ý và nước Đức; và còn nhiều chủ đề khác nữa.
Với cái nhìn ngôn sứ sâu sắc về thời đại chúng ta, Đức Bênêđictô XVI cảnh báo về một “sự thao túng triệt để con người” nhân danh lòng khoan dung, ngài nhấn mạnh rằng “đối trọng đích thực duy nhất đối với mọi hình thức bất khoan dung” đó chính là Chúa Kitô – một Chúa Kitô chịu đóng đinh.
Suốt đời là một người Công giáo, Đức cố Giáo hoàng đã bày tỏ lòng kính trọng đối với một số nhân vật vĩ đại của Kitô giáo, những vị mà ngài đã phục vụ trong nhiều năm như những ngôi sao dẫn đường: vị tiền nhiệm của ngài là thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, cha Alfred Delp, vị tử đạo Dòng Tên, người Đức, thuộc thế kỷ XX, và thánh Cả Giuse, người thợ mộc thầm lặng, vị thánh Bổn mạng của ngài.
Cuốn sách “Kitô giáo là gì?” chính là một di chúc thiêng liêng thẳng thắn từ một bậc thầy thần học, một giáo sĩ mến mộ một đức tin của những tín hữu đơn sơ nhưng luôn kiên vững, ngay cả trong những ngày cuối đời, sẵn sàng để đối thoại về mọi khía cạnh của đời sống con người, trong sự thật và tình bác ái.” — Nhà xuất bản Ignatius
“Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã cho chúng ta thấy một Kitô giáo sống trung thành với lòng đạo đức của một trẻ thơ vô tội, được giải thích với cái nhìn sâu sắc của một bậc thầy vĩ đại, và đón nhận một cách khiêm tốn bởi một con người được kêu gọi chấp nhận trọng trách lớn lao hơn bao giờ hết trong Giáo hội. Ước mong rằng tất cả những ai rút tỉa từ tác phẩm cuối cùng của ngài, thì sẽ đến gần hơn với ngôi vị của Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà ngài biết rằng, đó chính là mặc khải duy nhất và trọn vẹn của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại.” — Đức Hồng y Robert Sarah, nguyên Tổng trưởng, Bộ Phụng tự và kỷ luật Bí tích
“Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI [Joseph Ratzinger] là một trong những triết gia và thần học gia vĩ đại nhất của mọi thời đại, không chỉ ở cấp độ thuộc về hàng giáo sĩ mà còn ở cấp độ tuyệt đại đa số tín hữu. Tuyển tập này trình bày một số bài viết chưa được xuất bản hoặc chưa được phổ biến trên nước Ý. Người ta có thể ít nhiều đồng ý hoặc không đồng ý với tư tưởng thần học Joseph Ratzinger, và với những phân tích của ngài về tình hình Giáo hội, cũng như về đức tin trong thế giới hiện nay, về phần mình, lập tức tôi ủng hộ và đứng về phía ngài. Nhưng bất kể chúng ta có đồng ý hay không, thì ở đây chúng ta cũng gặp được đức tin của một con người đã tận hiến trọn đời mình cho Chúa Kitô và cho Giáo hội. Đó chính là lý do tại sao đáng để thưởng thức, và không thể bỏ qua tác phẩm tuyệt vời này được!” — Gianluca – Magani Marco
“Ở đây chúng ta tìm thấy một bộ sưu tập các tiểu luận hoặc các bài phát biểu về các chủ đề khác nhau của một trong những vị Giáo hoàng thần học gia vĩ đại nhất trong lịch sử. Đọc các tác phẩm của Đức Bênêđictô XVI luôn làm phong phú về mặt tâm tinh và trí tuệ. Ngài đã để lại cho chúng ta một quà tặng quý giá biết bao! Những điều quan trọng nhất về đức tin của chúng ta, được trình bày một cách thật chí lý. Những chủ đề tuyệt vời được coi là điều mà ít người có thể làm được, và ngày nay rất hiếm khi được nghe tới. Đọc tác phẩm này thật cuốn hút như đọc một cuốn tiểu thuyết vậy. Tuy nhiên, cũng có thể chọn đọc từng chương khác nhau mà không cần đọc theo trình tự của cuốn sách, nội dung của từng bài mang tính chuyên khảo độc lập.”— Brigitta
“Thật đáng tiếc, vì không phải ai cũng hiểu được sự vĩ đại thực sự của vị Giáo hoàng Ratzinger, nhưng cuốn sách này là một chuyên luận đích thực về Thần học thuần túy, chúng ta đừng quên rằng, vào thời Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, thì Joseph Ratzinger chính là ‘người bảo vệ Giáo lý Đức tin’! Bản văn tóm tắt của nhà thần học Công giáo đương đại vĩ đại nhất, được viết bằng những thuật ngữ mà ngay cả những người không đặc biệt quen thuộc với các chủ đề được đề cập cũng có thể tiếp cận được. Như thường lệ với Đức Bênêđictô XVI, chúng ta sánh bước với những điều cao cả. Tác phẩm trình bày ở cấp độ rất cao nhưng vẫn nằm trong tầm hiểu được của mọi độc giả.” — Massimo Pometti
“Các bản văn được thu thập trong tập sách này – trong cách diễn đạt rõ ràng, văn phong tươi mới và kiến thức sâu sắc – nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta tưởng nhớ tới Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI biết bao! Joseph Ratzinger cho thấy mình là một môn sinh của vị tôn sư Augustinô, khi trình bày một cách nhất quán các lập luận của mình trong khuôn khổ Thánh kinh. Bất cứ ai yêu thích các tác phẩm thần học hảo hạng thì hẳn sẽ cảm thấy thích thú với tác phẩm tuyệt vời này.” — Đức Giám mục Robert Barron, Giáo phận Winona-Rochester; người sáng lập, Mục vụ Công giáo Word on Fire
“Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã giáo huấn cho Giáo hội để rồi chính Giáo hội có thể cống hiến cho thế giới những chân lý sâu sắc nhất về chính mình. Việc nghiên cứu phi thường của ngài, được thể hiện một cách rõ ràng trong những suy tư cuối cùng này, một người đã sống một cuộc đời cao thượng, sẽ còn dạy cho cả Giáo hội và thế giới dài lâu về sau trong tương lai nữa.” — George Weigel, Thành viên cấp cao xuất sắc, Trung tâm Đạo đức và Chính sách công
“Những bài viết cuối cùng của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI một cách nào đó là quý giá nhất. Không có thư viện nào về thần học Joseph Ratzinger sẽ được coi là hoàn chỉnh nếu không có tuyển tập những kiến thức thần học cuối cùng này của ngài, và có lẽ đây chính là tác phẩm sâu sắc nhất và cá vị nhất của ngài.” — Tracey Rowland, Trưởng khoa Thần học thánh Gioan Phaolô II, Đại học Notre Dame (Australia)
“Một đoạn kết thích hợp cho sự dấn thân trọn đời của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI với các mầu nhiệm đức tin trong cuộc đối thoại với tư tưởng và thực tiễn đương thời. Mỗi chủ đề được giải quyết bằng sự mới mẻ độc đáo, vốn là dấu ấn riêng của ngài, với tư cách là một nhà tư tưởng, được trình bày một cách đơn sơ và rất hùng biện, phản ánh sự thành toàn trong các suy tư của ngài. Đây chính là một bản di chúc thiêng liêng đích thực.” — D. Vincent Twomey, S.V.D., nguyên Giáo sư của Đại học Giáo hoàng St. Patrick, Maynooth
“Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI luôn cung cấp những kiến thức sâu sắc về các lĩnh vực trọng tâm và gây tranh cãi nhất của đời sống Công giáo đương đại. Cuốn sách này chứa đựng một cú huých thần học mạnh mẽ và cho thấy thành quả trong những năm cuối đời của Đức Bênêđictô XVI.” — Matthew Levering, James N. Jr. và Mary D. Perry, Giám đốc Thần học, Chủng viện Mundelein
Giúp đọc tác phẩm “Kitô giáo là gì?”
Cuốn sách “Kitô giáo là gì?” đã thu hút rất nhiều sự chú ý, không chỉ vì nó tập hợp những bài viết cuối cùng của một trong những nhà thần học vĩ đại nhất của thời hiện đại. Cuốn sách cũng đang được thảo luận vì những báo cáo cho rằng Đức cố giáo hoàng người Đức chỉ muốn các tiểu luận được xuất bản sau khi ngài qua đời, vì “sự ồn ào đầy sát khí – murderous clamor” xung quanh việc xuất bản các tác phẩm khác sau khi ngài từ nhiệm, vào năm 2013.
Lời tựa, Elio Guerriero, người Ý, giám đốc của tạp chí thần học Communio, giải thích nguồn gốc của cuốn sách. Trước đây từng cộng tác với Đức Bênêđictô XVI trong một tập sách nói về cuộc đối thoại giữa Do Thái giáo và Kitô giáo, ông vốn khuyến khích Đức nguyên Giáo hoàng xuất bản một cuốn sách gồm các bài viết của ngài kể từ khi ngài từ nhiệm. Đức Bênêđictô XVI nói rằng ngài sẽ suy nghĩ về điều đó.
Guerriero viết rằng, sau đó Đức Bênêđictô đã có chút do dự vào thời điểm năm 2020, bởi cuộc tranh luận xung quanh bài viết của ngài cho một cuốn sách về sự độc thân linh mục, do Đức Hồng y Robert Sarah xuất bản.
Nhưng trong một lá thư gửi cho Guerriero, đề ngày 13 tháng 1 năm 2021, Đức Bênêđictô nói rằng, ngài muốn các bài viết sau khi ngài từ nhiệm, sẽ được xuất bản – nhưng chỉ với điều kiện, chúng phải xuất bản sau khi ngài đã qua đời. Ngài viết rằng: “Sự giận dữ của những nhóm chống lại tôi ở Đức mạnh đến mức chỉ cần một lời nói nhỏ nhất của tôi xuất hiện cũng lập tức gây ra một sự náo động khủng khiếp [horrible uproar] từ phía họ”.
Đức Bênêđictô bắt đầu duyệt lại các bản văn, bao gồm cả việc mở rộng bài suy tư đã xuất bản trước đây của ngài về chức linh mục. Ngài bày tỏ sự hài lòng lớn lao với bài tiểu luận mới này, trong cuộc gặp với Guerriero vào ngày 28 tháng 6 năm 2021, trước dịp kỷ niệm 70 năm thụ phong linh mục của ngài.
Để mang lại cho bộ sưu tập một cảm giác đầy đủ hơn, Đức Bênêđictô đã viết thêm các phần về các tôn giáo ngoài Kitô giáo và về Bí tích Thánh Thể. Trong khi các bản văn nguyên thủy được viết bằng tiếng Đức, Guerriero đã dịch chúng sang tiếng Ý, ngôn ngữ mà Đức Bênêđictô muốn chọn làm ngôn ngữ quy chiếu, trở thành bản gốc.
Lời nói đầu, trong lời nói đầu ngắn gọn đề ngày 1 tháng 5 năm 2022, Đức Bênêđictô giải thích rằng ngài không có ý định viết thêm gì nữa sau khi từ nhiệm sứ vụ Giáo hoàng, nhưng từ từ cầm bút trở lại sau cuộc bầu cử Đức Phanxicô. Sau đó, ngài đưa ra một cái nhìn tổng quan ngắn gọn về sáu chương của cuốn sách. Ngài nói rằng ngài đã viết các bài này tại Đan viện Mater Ecclesiae, nơi ngài nghỉ hưu, trong nội thành Vatican, và giao việc xuất bản cuốn sách này cho Guerriero, vì tác giả người Ý này đã viết tiểu sử ngài bằng tiếng Ý, và được biết đến với chuyên môn thần học.
Chương 1, với tiêu đề “Các tôn giáo trên thế giới và đức tin Kitô giáo”, chương này mở đầu bằng một bản văn có tựa đề là: “Tình yêu thương chính là căn nguyên của việc truyền giáo.” Đó là bài diễn văn của Đức Bênêđictô XVI, vào ngày 21 tháng 10 năm 2014, đánh dấu lễ khánh thành đại sảnh đường của Giáo hoàng Đại học Urbanô, đã được trùng tu và đặt tên là “Đại sảnh Bênêđictô XVI” để vinh danh ngài. Bản văn được trình bày nguyên vẹn ở đây, không thay đổi gì.
Sau đó, Đức Bênêđictô thêm vào một bản văn ngắn khác với tựa đề: “Tôn giáo là gì,” theo ngài, mục đích là làm sáng tỏ khái niệm về các tôn giáo mà Kitô giáo tìm cách tham gia đối thoại. Bản văn này được hoàn thành vào ngày 19 tháng 3 năm 2022 và chưa được xuất bản trước đó.
Chương 2, với tiêu đề “Các yếu tố nền tảng của đạo Kitô”, chương này đề cập đến bản chất và tương lai của thuyết độc thần. Nó mở đầu bằng một tiểu luận, được hoàn thành vào ngày 29 tháng 12 năm 2018, có tựa đề: “Thuyết độc thần và lòng khoan dung”, mà một số nhà bình luận coi là điểm nổi bật của cuốn sách.
Trong bản văn, Đức Bênêđictô than thở “sự bất khoan dung ngày càng gia tăng, được thực hiện chính dưới danh nghĩa khoan dung” trong các xã hội Tây phương. Ngài viết: “Sự bất khoan dung của thời hiện đại này rõ ràng đối với đức tin Kitô giáo chưa biến thành cuộc bách hại công khai. Nhưng nó tự trình bày một cách độc đoán hơn bao giờ hết, nhằm mục đích đạt được, với các luật lệ kèm theo, sự tuyệt chủng của những gì là điểm chính yếu của Kitô giáo”.
Tiếp theo tiểu luận trên là một suy tư ngắn gọn về điều mà Đức Bênêđictô coi là thiếu sót của nhiều nỗ lực đối thoại giữa Hồi giáo và Kitô giáo. Bản văn có tựa đề “Đối thoại Kitô giáo-Hồi giáo,” đã được hoàn thành vào ngày 1 tháng 3 năm 2018, nhưng cho đến nay chưa được xuất bản.
Sau đó là bài “Âm nhạc và phụng vụ,” một bản văn do Đức Bênêđictô XVI viết, nhân dịp nhận bằng tiến sĩ danh dự từ Đại học Giáo hoàng Gioan Phaolô II và Học viện Âm nhạc ở Kraków, Ba Lan, tại Castel Gandolfo, vào ngày 4 tháng 7 năm 2015.
Tiếp theo là bài “Thần học phụng vụ”, đó chính là một Lời tựa mà Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã viết cho tập thứ 11, ấn bản bằng tiếng Nga, trong toàn bộ các tuyển tập của ngài [bộ Tuyển tập các Bài giảng, Opera Omnia, gồm 16 tập]. Bài viết này được hoàn thành vào ngày 11 tháng 7 năm 2015.
Chương 3, với tiêu đề “Đối thoại giữa Do Thái giáo và người Kitô giáo,” chương này mở đầu bằng một tiểu luận dài “Ân sủng và ơn gọi không hối tiếc: Nhận xét về chuyên luận Do Thái giáo [De Iudaeis],” lấy cảm hứng từ một cuốn sách của nhà thần học Franz Mußner “về ý nghĩa tích cực lâu dài của Cựu ước.” Bản văn được hoàn thành vào ngày 26 tháng 10 năm 2017, và được xuất bản trong tạp chí Hiệp thông [Communio], ấn bản tháng 7-8 năm 2018.
Tiếp theo tiểu luận là một cuộc trao đổi thư giữa Đức nguyên Giáo hoàng và Giáo sĩ Arie Folger, Giáo sĩ trưởng của Vienna, Áo, vào tháng 8 và tháng 9 năm 2018, suy tư về các chủ đề được nêu ra trong tạp chí Hiệp thông, Communio. Các bức thư trước đây đã được xuất bản bằng tiếng Ý trong cuốn sách năm 2019, Do Thái giáo và Kitô giáo [Ebrei e Cristiani], hợp tác giữa Đức Bênêđictô XVI và biên tập viên Elio Guerriero.
Chương 4, với “Các chủ đề về thần học tín lý,” chương này mở đầu bằng cuộc phỏng vấn Đức Bênêđictô XVI, do Đức cha Daniele Libanori, S.J., (hiện nay là Giám mục Phụ tá của Giáo phận Rôma) thực hiện. Cuộc trao đổi, có tựa đề “Đức tin không phải là một ý tưởng, nhưng chính là một sự sống,” đã diễn ra để đánh dấu một hội nghị chuyên đề ở Rôma, về ơn công chính hóa nhờ đức tin, vào năm 2015. Bản văn được đăng trên tờ L’Osservatore Romano, ngày 16 tháng 3 năm 2016, được dịch sang tiếng Ý bởi cha Jacques Servais, Dòng Tên. Nó cũng xuất hiện trong cuốn sách năm 2016 của Libanori, có tựa đề là: “Nhờ đức tin” [Per mezzo della fede], Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô nói rằng, mục đích của ngài trong cuộc phỏng vấn chính là để giải thích làm thế nào chúng ta có thể hiểu được cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu Kitô dành cho nhân loại hôm nay.
Tiếp theo là một tiểu luận quan trọng có tựa đề: “Chức linh mục Công giáo”, một phiên bản được duyệt lại của bản văn đã được xuất bản trong cuốn sách “Từ thẳm sâu tâm hồn chúng tôi” của Đức Hồng y Sarah, năm 2020. Đức Bênêđictô nói rằng ngài muốn tạo cho bản văn một “trọng tâm mới”, lấp đầy những gì ngài tin là “một lỗ hổng” còn thiếu sót trong sắc lệnh Presbyterorum Ordinis về tác vụ và đời sống linh mục, của Công đồng Vaticanô II. Bản văn đã được hoàn thành vào ngày 17 tháng 9 năm 2019, sau đó được ngài chỉnh sửa và đào sâu thêm cho ấn bản mới này.
Tiếp theo là một bản văn có tựa đề: “Ý nghĩa của việc rước lễ,” trong đó Đức Bênêđictô đề cập đến cuộc tranh luận về việc rước lễ chung giữa người Công giáo và người Tin lành, điều mà ngài nhận xét rằng, thỉnh thoảng lại bùng lên ở nước Đức, quê hương của ngài. Ngài suy tư về đời sống Thánh Thể của Giáo hội Công giáo ngày nay, nhận thấy “một sự Tin lành hóa rất cao độ trong cách hiểu về bí tích Thánh Thể”, ở một số khu vực, nơi những lời kêu gọi cho rước lễ chung giữa Công giáo và Tin lành cũng đặc biệt gây ra sự ồn ào. Ngài gợi ý rằng phong trào đại kết đích thực đòi hỏi một sự thừa nhận trung thực về những khác biệt sâu sắc về Bí tích Thánh Thể giữa Công giáo và Tin lành vẫn còn tồn tại. Bản văn được hoàn thành vào ngày 28 tháng 6 năm 2018, và chưa từng được xuất bản trước đó.
Chương 5, với tiêu đề “Các chủ đề về thần học luân lý,” chương này dành riêng cho các vấn đề luân lý. Nó bao gồm tiểu luận “Giáo hội và tai tiếng lạm dụng tình dục,” được xuất bản lần đầu vào năm 2019 trên tạp chí Klerusblatt, một nguyệt san của hàng giáo sĩ vùng Bavaria [của Đức].
Chương 6, với tiêu đề “Các diễn văn và tiểu luận trong các dịp khác nhau”, chương này tập hợp các bản văn đánh dấu các dịp kỷ niệm khác nhau. Chương này mở đầu bằng diễn văn dành cho “Ủy ban Thần học Quốc tế”, một bài phát biểu vào ngày 22 tháng 10 năm 2019, tại Đan viện Mater Ecclesiae, để đánh dấu kỷ niệm 50 năm thành lập ủy ban. Bản văn đã được phổ biến trên trang mạng của Ủy ban Thần học Quốc tế, tại thời điểm đó, trong chuyên mục: “Các bài Diễn văn của các vị Giáo hoàng”.
Tiếp theo là tiểu luận nhân dịp “100 năm ngày sinh của thánh Gioan Phaolô II,” được viết vào ngày 4 tháng 5 năm 2020, trước lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của vị thánh Giáo hoàng người Ba Lan, vào ngày 18 tháng 5 năm 2020. Bản dịch tiếng Anh của bản văn đã được phát hành vào ngày 15 tháng 5 năm 2020, bởi Hội đồng Giám mục Ba Lan.
Tiếp theo là bài diễn văn nhân kỷ niệm 75 năm ngày mất của cha Alfred Delp, một tu sĩ Dòng Tên, người Đức, đã bị Đức quốc xã hành quyết vào ngày 2 tháng 2 năm 1945. Đức Bênêđictô đã viết bản văn, có tựa đề: “75 năm kể từ cái chết của cha Alfred Delp, SJ”, vào ngày 15 tháng 10 năm 2019. Bài này lần đầu tiên được xuất bản bằng tiếng Ý.
Bản văn cuối cùng của cuốn sách chính là cuộc phỏng vấn về thánh Giuse, vị thánh Bổn mạng của ngài, có tựa đề là “Sự thinh lặng của thánh Giuse cũng là cách ngài nói.” Cuộc phỏng vấn đã được trao cho Regina Einig và được đăng trên tờ báo Die Tagespost của Đức, vào ngày 1 tháng 4 năm 2021, nhân dịp mừng Năm thánh Giuse. Bản văn chưa từng xuất hiện bằng tiếng Ý trước đây. Đức Bênêđictô nói rằng cuộc phỏng vấn phản ảnh sự hiểu biết của ngài, vốn trở nên rõ ràng hơn khi ngài càng thêm tuổi, rằng sự thinh lặng của thánh Giuse nói với chúng ta và hướng dẫn chúng ta đến sự khôn ngoan (trích trong “What is Christianity?”: A reader’s guide to Benedict XVI’s last book, bởi JD Flynn).
Kitô giáo là gì? Lời tựa của Biên tập viên Elio Guerriero
Vào năm 2019, tôi đã biên tập một cuốn sách có tựa đề Do Thái giáo và Kitô giáo (Ebrei e cristiani)[2], trong đó tôi đã cung cấp cho giới độc giả tiếng Ý về bài báo của Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI “Ân sủng và ơn gọi không hối tiếc: Nhận xét về Luận thuyết De Iudaeis”, tiếp đó là trao đổi thư từ giữa Giáo sĩ trưởng của Vienna Arie Folger và Đức nguyên Giáo hoàng. Thật diệu kỳ, bài báo của Ratzinger, được một số nhà thần học Công giáo trong thế giới nói tiếng Đức coi là một mối nguy hiểm cho cuộc đối thoại giữa Do Thái giáo-Kitô giáo, thì lại được bảo vệ bởi giáo sĩ trưởng của Vienna và những người ủng hộ người Do Thái ở Ý và ở các nước khác.
Việc xuất bản cuốn sách đó đã mang lại thành quả tốt đẹp cho cuộc đối thoại, đến nỗi trong buổi giới thiệu sách tại Đại học Lateranô ở Rôma, có sự tham dự của giáo sĩ Arie Folger, Riccardo Di Segni, giáo sĩ trưởng của Rôma, và Renzo Gattegna, cựu chủ tịch của Liên minh các quốc gia, cộng đồng Do Thái giáo tại Ý. Sự phổ biến của cuốn sách ở Ý cũng rất tích cực và cũng có những ấn bản ở các nước khác nữa.
Được khích lệ bởi tiền lệ này, trong một cuộc gặp gỡ mà tôi đã thông báo cho ngài về các sự kiện trên đây, tôi đã đánh liều hỏi ngài rằng: “Tại sao lại không thu thập thành một tuyển tập và xuất bản tất cả các bản văn được viết trong những năm sau khi ngài từ nhiệm?” Theo thói quen mà tôi đã biết từ lâu, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô trả lời rằng ngài sẽ suy nghĩ về điều đó. Sau này, tôi được biết rằng ngài đã bắt đầu thu thập các tài liệu, và đây chắc chắn là một dấu hiệu tích cực.
Tình hình trở nên phức tạp khi xuất bản tập sách Từ thẳm sâu tâm hồn chúng tôi,[3] của Đức Hồng y Robert Sarah, trong đó có một bài của Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI, về chức linh mục Công giáo. Theo một số nhà bình luận ác ý [malevoli], trong đó điển hình là có các tác giả thuộc vùng nói tiếng Đức, một lần nữa đã cho rằng, cuốn sách dường như là một sự phủ nhận Thượng Hội đồng Giám mục về miền Amazon diễn ra vào tháng 10 năm 2019, và thực sự dường như là một kiểu dự đoán về những kết luận mà Đức Giáo hoàng Phanxicô đang chuẩn bị rút ra từ đó. Điều này dẫn đến một phen hú vía, sau đó vị nguyên Giáo hoàng đã viết thư cho tôi rằng ngài đồng ý với yêu cầu của tôi về xuất bản các bài viết của ngài, nhưng đặt ra một điều kiện bắt buộc: tác phẩm này chỉ được xuất bản sau khi ngài đã qua đời. Trong thư ngài viết: “Về phần mình, trong suốt quãng đời còn lại, tôi không muốn xuất bản thêm bất cứ tác phẩm nào nữa. Sự giận dữ của các nhóm chống lại tôi ở Đức mạnh đến mức, mỗi lời nói của tôi xuất hiện, ngay lập tức gây ra một sự náo động khủng khiếp [tiếng hét giết người] từ phía họ. Vì thế, tôi muốn tránh cho bản thân mình và tránh cho Kitô giáo khỏi điều này.”[4]
Trong cùng một bức thư, Đức Bênêđictô XVI xin lỗi vì vẫn chưa bắt đầu công việc chỉnh sửa các bài viết của mình; tuy nhiên, ngài đã hứa với tôi rằng ngài sẽ sớm làm việc đó. Quả thật, trong những tháng tiếp theo, ngài đã thực hiện điều đó. Vượt xa những yêu cầu của tôi, ngài không giới hạn bản thân mình trong việc đọc lại các bài báo đã được xuất bản. Ngài đã hoàn thiện cách đáng kể một số bản văn, trong đó có bản văn về chức linh mục Công giáo xứng đáng được đề cập một cách đặc biệt. Trong một cuộc gặp gỡ diễn ra vào ngày 28 tháng 6 năm 2021, một ngày trước lễ kỷ niệm 70 năm thụ phong linh mục của ngài, ngài đã nhiệt tình nói với tôi về cuộc đời linh mục của ngài, và nhấn mạnh tầm quan trọng của bản văn về chức linh mục sẽ được trình bày trong tác phẩm này. Ngài hài lòng với thành quả mà ngài đã đạt được, dựa trên kinh nghiệm cá nhân của mình. Trong số những điều đó, ngài khẳng định rằng ngài đã góp phần vào việc khắc phục lỗ hổng còn sót lại trong Sắc lệnh về Tác vụ và Đời sống các Linh mục [Presbyterorum Ordinis] của Công đồng Vaticanô II. Công việc đang tiến hành liên quan đến bản văn vẫn chưa hề kết thúc. Vì muốn mang lại một cấu trúc nội tại và một cảm giác hoàn chỉnh cho tuyển tập, nên ngài đã viết thêm một số bài luận bổ sung quan trọng khác, chẳng hạn như những bài về các tôn giáo trên thế giới, và về sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể.
Tóm lại, tập sách này không phải chỉ là một sự tập hợp những bản văn đã phổ biến trước đây, rồi bổ sung thêm một số bản văn mới, mà còn hơn thế nữa, đó chính là một di chúc thiêng liêng được viết ra với tinh thần minh triết từ tấm lòng của một người cha luôn quan tâm đến những mong đợi và hy vọng của các tín hữu và của tất cả mọi người. Như mọi người đã biết rằng Đức Bênêđictô XVI viết bằng tiếng Đức. Việc dịch các bản văn [sang tiếng Ý] được thực hiện bởi Pierluca Azzaro và tôi. Hơn nữa, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã quyết định rằng ấn bản chính thức của cuốn sách hiện tại phải là ấn bản bằng tiếng Ý.
Về phần cá nhân tôi, một lần nữa, tôi vẫn muốn bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với Đức cố Giáo hoàng Bênêđictô XVI, vì sự tín nhiệm mà ngài đã đặt để ở nơi tôi trong suốt những năm qua.
Elio Guerriero
Lời tựa của Đức Bênêđictô XVI
Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI trong phòng làm việc của ngài trong kỳ nghỉ tại les Combes ở Val d’Aosta, ảnh lưu trữ của ANSA
Vào ngày 11 tháng 2 năm 2013, khi tôi tuyên bố từ nhiệm sứ vụ của người kế vị thánh Phêrô, tôi không có kế hoạch nào cho những gì tôi sẽ thực hiện trong hoàn cảnh mới của mình. Tôi đã quá kiệt sức để có thể lên kế hoạch cho bất kỳ một công việc nào khác. Hơn nữa, việc xuất bản cuốn sách Đức Giêsu thành Nadarét: Thời ấu thơ [5] dường như đã là một phần kết hợp lý cho các tác phẩm thần học của tôi rồi.
Sau khi Đức Phanxicô được bầu chọn làm Giáo hoàng, tôi dần dần tiếp tục công việc suy tư thần học của mình. Vì vậy, trong những năm qua, hàng loạt những bài đóng góp ở dạng vừa và nhỏ đã được hình thành, và chúng được trình bày trong tập sách này.
Chương 1, có bài diễn văn của tôi nhân dịp khánh thành đại sảnh đường [Aula Magna] của Đại học Giáo hoàng Urbaniana, vào ngày 21 tháng 10 năm 2014. Nguyên văn bài này được in lại ở đây, không thay đổi chút nào.
Sau đó, tôi thêm vào một bản văn để làm sáng tỏ khái niệm về các tôn giáo trên thế giới mà đức tin Kitô giáo muốn tham gia vào cuộc đối thoại.
Chương 2, đề cập đến chủ đề về bản chất và sự phát triển của thuyết độc thần. Đó là một bài viết ngắn về phương pháp đối thoại giữa Kitô giáo-Hồi giáo, và sau đó là bài phát biểu bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với Đại học Giáo hoàng ở Kraków vì đã trao cho tôi bằng tiến sĩ danh dự. Ngoài hai bản văn ngắn này, còn có thêm phần Lời tựa mà tôi đã viết cho ấn bản bằng tiếng Nga, tập 11, chủ đề Thần Học Phụng Vụ, trong bộ Tuyển tập các Tác phẩm [Opera Omnia] của tôi, tất cả gồm 16 tập.
Trong chương 3, trình bày bản văn mà tôi đã viết về mối liên hệ giữa Do Thái giáo và Kitô giáo cũng như việc trao đổi thư từ với Giáo sĩ Arie Folger mà tôi đã thực hiện vào tháng 8 và tháng 9 năm 2018. Thật vậy, tôi đã dứt khoát bác bỏ những cáo buộc liên quan đến não trạng bài Do Thái bị cáo buộc là được thể hiện trong các suy tư của tôi. Những nỗ lực của tôi đã được các độc giả Do Thái giáo đánh giá hoàn toàn tích cực. Vì thế, tôi hy vọng rằng bản văn này vẫn còn có thể góp phần vào một cuộc đối thoại tốt đẹp hơn.
Chương 4, bắt đầu với cuộc phỏng vấn mà tôi đã thực hiện theo lời mời của cha Daniele Libanori. Nó đề cập đến luận điểm rằng Đức Giêsu Kitô đã phải chết để khôi phục lại trật tự đã bị tội lỗi làm đảo lộn. Câu trả lời kinh điển do thánh Anselmô thành Canterbury đã đưa ra, hầu như không thể hiểu nổi đối với chúng ta ngày hôm nay. Trong cuộc phỏng vấn, tôi đã cố gắng chỉ ra làm thế nào ngày nay chúng ta có thể hiểu một cách hợp lý, động cơ dẫn đến cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu Kitô.
Hai bản văn tiếp theo bàn về chủ đề chức linh mục và Thánh Thể. Bài viết về chức linh mục đã được xuất bản lần đầu trong tập sách của Đức Hồng y Sarah, Từ thẳm sâu tâm hồn chúng tôi. Sau đó, tôi đã làm lại bản văn đó và tạo cho nó một trọng tâm mới. Văn kiện của Công đồng Vaticanô II về chức linh mục thừa tác đã cố gắng thể hiện lại vẻ đẹp của nó theo một cách mới mẻ. Tuy nhiên, trong bối cảnh này, vẫn còn một thiếu sót quan trọng, do hoàn cảnh chú giải Kinh thánh thời hiện đại gây ra. Quả thực, chức tư tế về cơ bản xuất hiện như một chức vụ mục vụ, trong khi đặc điểm thiết yếu của chức tư tế [proprium sacerdotale] được cho là không có trong chức vụ mục vụ của Tân ước. Tuy nhiên, tôi đã có thể chứng minh rằng, bất chấp điều này, chữ “presbyter”[6] trong Tân ước chính là một sacerdos, ngay cả khi theo một nghĩa mới được định nghĩa bởi thầy tế lễ thượng phẩm, đó chính là Đức Giêsu Kitô trên thập giá. Hơn nữa, tôi đã đề cập đến cuộc tranh luận về việc rước lễ, vốn thỉnh thoảng lại được đề xuất một cách mạnh mẽ ở Đức. Từ đó dẫn đến một cái nhìn sâu sắc hơn về sự hiện diện thật của Mình và Máu Chúa Kitô, và theo đó là một định nghĩa mới về những gì có thể hoặc không thể có nghĩa, qua cụm từ “ăn và uống Mình Máu Chúa Kitô”.
Chương 5, đề cập tới các vấn đề luân lý. Một đóng góp cơ bản được trình bày ở đây liên quan đến vấn đề Giáo hội và vụ bê bối lạm dụng tình dục.
Chương 6, chứa đựng những đóng góp bắt nguồn chủ yếu từ những dịp kỷ niệm lịch sử: bài diễn văn của tôi nhân dịp 50 năm thành lập Ủy ban Thần học Quốc tế; một kỷ niệm về thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, nhân dịp 100 năm ngày sinh của ngài; thêm một bài viết kỷ niệm 75 năm ngày mất của cha Alfred Delp. Chương này kết thúc với một cuộc phỏng vấn về thánh Giuse, một vị thánh đã được cha mẹ tôi đặt cho tôi như một vị thánh bảo trợ suốt đời. Càng lớn lên, hình ảnh của vị thánh bổn mạng càng hiện rõ trong tôi. Không có một lời nói nào của thánh Giuse được truyền lại cho chúng ta, mà chính là khả năng biết lắng nghe và hành động của thánh nhân. Càng ngày tôi càng hiểu rằng sự thinh lặng của thánh Giuse cũng chính là cách mà ngài muốn nói với chúng ta, và ngoài kiến thức khoa học, thánh nhân còn mong muốn hướng dẫn tôi đến sự khôn ngoan.
Tập sách này, tập hợp những bài tôi viết [trong thời gian hưu dưỡng] tại đan viện Mẹ Giáo hội [Mater Ecclesiae], sẽ chỉ được xuất bản sau khi tôi qua đời. Tôi giao nhiệm vụ biên tập tác phẩm này cho Tiến sĩ Elio Guerriero, người đã viết về tiểu sử của tôi bằng tiếng Ý, và là người mà tôi nhìn nhận về năng lực thần học của ông ấy. Vì thế, tôi sẵn lòng giao phó cho ông ấy cuốn sách này, tác phẩm cuối cùng của đời tôi.
(đã ký)
Bênêđictô XVI
Tại Đan viện Mater Ecclesiae
Ngày 01 tháng 05 năm 2022, ngày Lễ kính thánh Giuse Thợ
CHƯƠNG 1: ĐỨC TIN KITÔ GIÁO VÀ CÁC TÔN GIÁO TRÊN THẾ GIỚI
Tình yêu thương chính là căn nguyên của việc truyền giáo[7]
Trước hết, tôi xin bày tỏ lời cám ơn chân thành nhất đến ngài Hiệu trưởng đáng kính và ban giảng huấn của Đại học Giáo hoàng Urbaniana, đến các quan chức cấp cao và đại diện các sinh viên về đề xuất đặt tên cho hội trường đã được tân trang lại là đại sảnh Bênêđictô XVI theo tên tôi. Đặc biệt, tôi muốn cám ơn Đức Hồng y Fernando Filoni, là Hiệu trưởng của trường đại học này, vì đã hoan nghênh sáng kiến này. Đối với tôi, đó là một niềm vui lớn lao khi có thể luôn hiện diện theo cách này trong các hoạt động của Đại học Giáo hoàng Urbaniana.
Trong một số chuyến viếng thăm mà tôi có thể thực hiện trong tư cách là Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, tôi luôn bị ấn tượng bởi bầu khí huynh đệ đại đồng mà người ta hít thở tại trường đại học này, trong đó những người trẻ đến từ hầu hết các quốc gia trên thế giới, để chuẩn bị cho việc phục vụ loan báo Tin mừng trong thế giới đương đại. Hôm nay, tôi cũng thấy trong tâm trí, trước mắt mình, trong hội trường đã được tân trang lại, một cộng đồng gồm nhiều người trẻ nam nữ giúp chúng ta cảm nhận một cách sống động thực tại kỳ diệu của Giáo hội Công giáo.
Thuật ngữ “Công giáo”: thuộc tính này của Giáo hội, vốn là một phần của việc tuyên xưng đức tin từ thời xa xưa nhất, mang trong mình một điều gì đó của ngày Lễ Ngũ Tuần. Điều đó nhắc nhở chúng ta rằng Giáo hội của Đức Giêsu Kitô chưa bao giờ chỉ quan tâm đến một quốc gia hay chỉ một nền văn hóa nào đó, mà ngay từ đầu, Giáo hội đã được định sẵn cho cả nhân loại. Lời cuối cùng Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19). Và vào thời điểm Lễ Ngũ Tuần, các tông đồ đã nói bằng mọi ngôn ngữ, và vì thế, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, các ngài có thể biểu lộ sự tròn đầy đức tin của mình.
Kể từ đó, Giáo hội thực sự phát triển trên khắp các châu lục. Các sinh viên rất thân mến, sự hiện diện của các con, phản ánh khuôn mặt của Giáo hội phổ quát. Ngôn sứ Dacaria đã loan báo về một vương quốc của Đấng Mêsia, Người sẽ thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất, và sẽ là một vương quốc hòa bình (Dcr 9,9-10). Quả thật, bất cứ nơi nào cử hành Thánh Thể và nơi nào mọi người, theo sáng kiến của Chúa, trở nên một Nhiệm Thể với nhau, thì ở đó có được sự bình an mà Đức Giêsu Kitô đã hứa ban cho các môn đệ của Người. Các bạn thân mến, các con là những cộng tác viên với nền hòa bình này, và trong một thế giới chia rẽ và đầy bạo lực, thì việc kiến tạo và gìn giữ nền hòa bình này càng trở nên cấp bách hơn. Đây là lý do tại sao hoạt động của trường đại học của các con rất quan trọng, trong đó các con nhắm đến việc học biết Đức Giêsu Kitô một cách mật thiết hơn để có thể trở thành chứng nhân của Người.
Chúa Phục sinh đã ủy thác cho các tông đồ, và qua họ là các môn đệ của mọi thời đại, để mang sứ điệp của Chúa đến tận cùng trái đất và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Công đồng Vaticanô II, khi lặp lại trong Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo hội [Ad Gentes] một truyền thống có từ mọi thế kỷ, đã nêu bật những lý do sâu xa của nhiệm vụ truyền giáo này, và vì thế, đã trao nhiệm vụ này cho Giáo hội ngày nay với một sức mạnh mới.
“Nhưng liệu điều này có thực sự vẫn còn hiệu lực nữa hay không?” nhiều người thắc mắc, cả trong và ngoài Giáo hội. Liệu có đúng là công cuộc truyền giáo hiện nay vẫn còn được quan tâm chăng? Gặp gỡ nhau trong cuộc đối thoại giữa các tôn giáo trên thế giới và cùng nhau phục vụ sự nghiệp hòa bình trên thế giới chẳng phải là điều thích hợp hơn sao? Câu hỏi ngược lại là: Liệu đối thoại có thể thay thế công cuộc truyền giáo chăng? Thật vậy, nhiều người ngày nay có quan niệm rằng các tôn giáo trên thế giới nên tôn trọng lẫn nhau, và trong cuộc đối thoại giữa các tôn giáo, trở thành một lực lượng chung cho hòa bình. Theo cách suy nghĩ này, hầu hết thường có giả định rằng các tôn giáo khác nhau là những biến thể của một và cùng một thực tại; “tôn giáo” đó là một loại chung có các hình thức khác nhau tùy thuộc vào các nền văn hóa khác nhau, nhưng dù sao cũng thể hiện cùng một thực tại. Vấn nạn về “chân lý”, một vấn nạn từ ban đầu đã thúc đẩy các Kitô hữu hơn bất cứ điều gì khác, được đặt trong ngoặc đơn ở đây. Suy cho cùng, người ta giả định rằng chân lý xác thực về Chúa là không thể đạt được, và cùng lắm thì chúng ta chỉ có thể biến điều không thể diễn tả thành hiện tại bằng nhiều biểu tượng khác nhau. Sự từ bỏ chân lý này có vẻ thực tế và hữu ích cho hòa bình giữa các tôn giáo trên thế giới. Tuy nhiên, nó gây triệt tiêu cho đức tin chân thực. Thật vậy, đức tin sẽ mất đi đặc tính ràng buộc và tính nghiêm túc của nó nếu mọi thứ bị quy giản thành những biểu tượng về cơ bản có thể hoán đổi cho nhau, chỉ có khả năng quy chiếu từ xa đến mầu nhiệm thánh thiêng không thể tiếp cận được.
Các bạn thân mến, các con thấy rằng vấn đề truyền giáo đặt ra cho chúng ta không những về các vấn đề cơ bản về đức tin mà còn cả vấn đề con người là gì. Trong giới hạn của những lời phát biểu ngắn gọn này, hiển nhiên cha không thể cố gắng phân tích một cách thấu đáo loạt vấn đề đang làm quan tâm sâu sắc đến tất cả chúng ta ngày nay. Do đó, cha muốn ít nhất là chỉ ra hướng mà suy nghĩ của chúng ta nên tiến hành. Cha sẽ thực hiện điều này bằng cách khởi hành từ hai điểm xuất phát khác nhau.
I
- Ý kiến chung cho rằng các tôn giáo trên thế giới, có thể nói, chỉ đơn giản là nằm cạnh nhau, giống như các lục địa và các quốc gia riêng lẻ trên bản đồ. Nhưng điều này là không chính xác. Các tôn giáo trên thế giới đang vận hành ở cấp độ lịch sử, giống như các quốc gia và các nền văn hóa đang vận hành. Có những tôn giáo mong đợi. Các tôn giáo bộ lạc thuộc loại này: chúng có thời điểm lịch sử của chúng nhưng vẫn đang mong đợi một cuộc gặp gỡ lớn hơn sẽ đưa chúng đến sự viên mãn. Chúng ta, những Kitô hữu, xác tín rằng, trong thinh lặng, họ đang chờ đợi cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu Kitô, ánh sáng phát xuất từ nơi Người, ánh sáng duy nhất có thể dẫn họ hoàn toàn tới chân lý của họ. Và Chúa Kitô đang chờ đợi họ. Cuộc gặp gỡ với Chúa không phải là sự xâm nhập của một thứ gì đó ngoại lai phá hủy nền văn hóa và lịch sử của chính họ. Đúng hơn, đó là một lối vào một điều gì đó vĩ đại hơn mà họ đang hướng tới. Do đó, cuộc gặp gỡ này luôn đồng thời là một sự thanh tẩy và một sự trưởng thành. Hơn nữa, cuộc gặp gỡ luôn có tác động qua lại. Chúa Kitô chờ đợi lịch sử của họ, sự khôn ngoan của họ, tầm nhìn của họ về mọi thứ. Ngày nay, chúng ta cũng thấy rõ ràng hơn một khía cạnh khác nữa: trong khi Kitô giáo về nhiều mặt đã trở nên mệt mỏi ở những quốc gia mà lịch sử vĩ đại của nó đã diễn ra, và một số nhánh của cây lớn mọc lên từ hạt cải của Tin mừng đã trở nên khô héo và gãy đổ xuống đất, sự sống mới nảy sinh từ cuộc gặp gỡ của các tôn giáo đang mong đợi với Chúa Kitô. Nơi mà trước đây chỉ có sự mệt mỏi, thì nay những chiều kích mới mẻ của đức tin được biểu lộ và mang lại niềm vui.
- Tự bản chất, tôn giáo không phải là một hiện tượng nguyên khối. Một số chiều phải luôn được phân biệt trong đó. Một mặt, có sự vĩ đại của việc vượt ra ngoài thế giới để hướng tới Thiên Chúa vĩnh cửu. Nhưng mặt khác, sự vĩ đại này chứa đựng những yếu tố bắt nguồn từ lịch sử nhân loại và từ việc thực hành tôn giáo của họ. Dĩ nhiên, trong số đó, chúng ta có thể tìm thấy những điều tốt đẹp và cao quý, nhưng cũng có những điều thấp hèn và hủy hoại, nơi mà lòng ích kỷ của con người đã chiếm hữu tôn giáo và biến nó thành một sự khép kín thay vì được mở ra. Do đó, tôn giáo không bao giờ chỉ đơn giản là một hiện tượng thuần túy tích cực hay thuần túy tiêu cực: trong đó cả hai khía cạnh đều được giao thoa với nhau. Trong thời gian đầu, sứ mệnh Kitô giáo đã nhận thức rất mạnh mẽ, trên hết, các yếu tố tiêu cực của các tôn giáo ngoại giáo mà nó phải đối mặt. Vì lý do này, lời tuyên bố của Kitô giáo thuở sơ khai hết sức chỉ trích các tôn giáo khác. Chỉ bằng cách vượt qua những truyền thống của họ, mà một phần nó thậm chí còn coi là ma quỷ, thì đức tin mới có thể thể hiện sức mạnh cải tạo của mình. Trên cơ sở các yếu tố thuộc loại này, nhà thần học theo chủ nghĩa Calvin Karl Barth đã đối chiếu tôn giáo và đức tin, đánh giá đức tin đầu tiên theo cách hoàn toàn tiêu cực là hành vi độc đoán của con người cố gắng nắm bắt Chúa một mình. Dietrich Bonhoeffer chấp nhận thái độ này, tuyên bố rằng ông ủng hộ một Kitô giáo “không có tôn giáo”. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là một quan điểm đơn phương không thể được chấp nhận. Tuy nhiên, thật đúng khi khẳng định rằng mọi tôn giáo, để duy trì sự công bằng, luôn phải đồng thời phê phán tôn giáo. Rõ ràng điều này đúng với đức tin Kitô giáo ngay từ đầu, phù hợp với bản chất của nó. Một mặt, nó hết sức tôn trọng kỳ vọng bên trong và sự phong phú bên trong của các tôn giáo trên thế giới, nhưng mặt khác, nó nhìn nhận một cách phê phán những gì là tiêu cực. Không cần phải nói rằng đức tin Kitô hết lần này đến lần khác cũng phải thể hiện khả năng phê bình đó đối với lịch sử tôn giáo của chính mình. Đối với người Kitô hữu chúng ta, Đức Giêsu Kitô là Logos của Thiên Chúa, là ánh sáng giúp chúng ta phân biệt bản chất của tôn giáo với sự biến dạng của nó.
- Trong thời đại của chúng ta, tiếng nói của những người muốn thuyết phục chúng ta rằng tôn giáo như vậy đã lỗi thời đang ngày càng lớn hơn. Họ nói, chỉ có lý trí phê phán mới định hướng được hành động của con người. Đằng sau những khái niệm như thế này là niềm tin rằng với tư tưởng thực chứng, lý trí với tất cả sự trong sáng của nó đã chắc chắn nắm quyền kiểm soát. Trên thực tế, ngay cả lối suy nghĩ và lối sống này cũng bị quy định trong lịch sử và được kết nối với các nền văn hóa lịch sử cụ thể. Việc coi lối suy nghĩ này là lối suy nghĩ hợp lệ duy nhất cuối cùng đã coi thường con người bằng cách lấy đi những chiều kích thiết yếu trong sự tồn tại của anh ta. Con người trở nên nhỏ bé hơn, chứ không lớn hơn, khi không còn chỗ cho một đặc tính phù hợp với bản chất đích thực của con người, vượt ra ngoài chủ nghĩa thực dụng, khi không còn chỗ cho một cái nhìn hướng về Thiên Chúa. Vị trí thích hợp cho lý trí thực chứng là trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế và công nghệ vĩ đại, nhưng nó không làm cạn kiệt tất cả những gì thuộc về con người. Vì vậy, chúng ta là những người tin tưởng vào việc mở rộng nhiều lần những cánh cửa vượt ra ngoài công nghệ đơn thuần và chủ nghĩa thực dụng thuần túy để đến với toàn bộ sự vĩ đại của sự tồn tại của chúng ta, đến cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống.
II
- Những suy tư này, mặc dù hơi khó khăn, phải cho thấy rằng ngay cả ngày nay, trong một thế giới đã thay đổi sâu sắc, nhiệm vụ truyền đạt Tin mừng của Đức Giêsu Kitô cho người khác vẫn còn hợp lý. Và tuy nhiên, cũng có một cách thứ hai, đơn giản hơn để biện minh cho nhiệm vụ này ngày nay. Niềm vui cần được truyền đạt. Tình yêu cần được truyền đạt. Sự thật cần được truyền đạt. Một người đã nhận được một niềm vui lớn không thể chỉ giữ nó cho riêng mình; anh ấy phải bàn giao nó trên. Điều này cũng đúng đối với món quà tình yêu và món quà nhận ra sự thật được bày tỏ. Khi gặp Đức Kitô, Anrê đã không thể không nói với anh mình: “Chúng tôi đã gặp Đấng Cứu Thế” (Ga 1,41). Và khi Philípphê cũng được gặp gỡ như thế, ông không thể không nói với Nathanael rằng ông đã gặp được Đấng mà Môsê và các tiên tri đã viết về (Ga 1,45). Chúng ta hãy loan báo Đức Giêsu Kitô, không phải để có được càng nhiều thành viên càng tốt cho cộng đồng của chúng ta, càng không phải vì quyền lực. Chúng ta hãy nói về Người vì chúng ta cảm thấy rằng chúng ta phải chia sẻ niềm vui đã được ban cho chúng ta. Chúng ta sẽ là những người loan báo đáng tin cậy về Đức Giêsu Kitô khi chúng ta thực sự gặp gỡ Người trong thâm tâm con người chúng ta, khi qua cuộc gặp gỡ với Người, chúng ta đã lãnh nhận món quà là kinh nghiệm tuyệt vời về chân lý, tình yêu và niềm vui.
- Một phần bản chất của tôn giáo là sự căng thẳng sâu sắc giữa việc dâng hiến thần bí cho Thiên Chúa, trong đó chúng ta hiến mình hoàn toàn cho Người, và trách nhiệm đối với tha nhân và đối với thế giới do Thiên Chúa tạo dựng. Mácta và Maria luôn luôn không thể tách rời, mặc dù đôi khi có thể nhấn mạnh đến người này hay người kia. Điểm gặp gỡ giữa hai thái cực là tình yêu mà trong đó chúng ta cùng lúc chạm đến Thiên Chúa và các thụ tạo của Người. “Chúng tôi biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng tôi” (1Ga 4,16): câu này diễn tả bản chất đích thực của Kitô giáo. Tình yêu, được thể hiện và phản ánh theo nhiều cách khác nhau nơi các thánh của mọi thời đại, là bằng chứng xác thực cho chân lý của Kitô giáo.
Tôn giáo là gì?[8]
Một nỗ lực để xác định khái niệm về tôn giáo
Khi chúng ta cố gắng làm rõ bản chất của tôn giáo, điểm đầu tiên nổi lên là tôn giáo chỉ tồn tại trong các tôn giáo thực sự. Không có bản chất trừu tượng của tôn giáo, mà chỉ có những hình thức cụ thể của tôn giáo. Điều này dường như khiến nỗ lực tìm kiếm các phương pháp đối thoại rơi vào ngõ cụt. Thật vậy, các tôn giáo thế giới trông giống như một tòa nhà bao trùm các lục địa của không gian và thời gian. Tuy nhiên, khi xem xét kỹ hơn, rõ ràng là các tôn giáo, bên ngoài các lục địa, xuất hiện như những công trình xây dựng vĩ đại, hơn nữa, không thể được trình bày một cách tĩnh tại, mà về mặt lịch sử, chúng được phát hiện là đang vận động, nhờ đó cuối cùng chúng có xu hướng vượt qua chính mình. Tuy nhiên, trong phong trào này, chúng không bị phá hủy mà được thanh lọc và đưa trở lại bản chất chân thực hơn của chúng.
Cái gọi là tôn giáo bộ lạc (từng được mô tả đơn giản là ngoại giáo) công nhận các vị thần được sắp đặt cho các lĩnh vực cụ thể của cuộc sống. Các giáo phái sinh sản là những người dễ thấy nhất. Các thành viên của họ hân hoan tôn kính mầu nhiệm sinh sản và do đó đồng thời đón nhận mầu nhiệm ấy theo cách luôn mới mẻ. Do đó, nội dung cốt yếu của những sự sùng bái này là siêng năng bảo tồn khả năng sinh sản, biết ơn vì đã bảo tồn chúng và vui mừng vì điều đó. Tuy nhiên, khi làm như vậy, các tín đồ tự động và ở khắp mọi nơi đạt đến điểm lạm dụng ngây ngất, trong đó các yếu tố thần thánh và con người đan xen với nhau và do đó đánh mất phẩm giá đúng đắn của chúng. Theo cách này, những giáo phái này đã dẫn đến sự hủy diệt của toàn bộ xã hội, do đó đặt ra câu hỏi về bản chất của tôn giáo. Cuộc đấu tranh chống lại những tà giáo này với những cám dỗ của chúng xác định một cách rộng rãi mối quan hệ của đức tin Kinh thánh đối với các tôn giáo.
Đương nhiên cũng có mặt tích cực đối với những tôn giáo này, vì chúng được ra lệnh để bảo tồn và màu mỡ của trái đất. Trong xã hội cuối thời cổ đại, chúng xuất hiện không gì khác hơn là bản chất của tà giáo, mà ngày nay được thể hiện một cách hoàn toàn tích cực trong các đám rước, trong các nghi lễ và các cử chỉ tương tự. Kitô giáo, lúc đầu không quen thuộc với những hình thức sùng kính này và trái ngược với tính tôn giáo của vùng nông thôn, cuối cùng đã phải chấp nhận, thanh lọc và sửa chữa nhiều yếu tố từ bối cảnh này, nhưng cũng phải chấp nhận những đề nghị mới và những hình thức sùng kính cụ thể. Cái gọi là những kinh cầu lớn [litaniae maiores] được lưu giữ như những lời cầu nguyện khẩn cầu cho đến ngưỡng cửa của thời đại hôm nay. Điều khởi đầu là tà giáo, vốn trái ngược với đức tin, ngày nay là một loại nhãn quan Kitô giáo về cuộc sống và thế giới, không may là định mệnh sẽ chết. Những gì rõ ràng là ngoại giáo, mà lúc đầu dường như phải bị loại bỏ, cuối cùng đã góp phần vào việc đại diện cho một cuộc sống luôn được tiếp nhận một lần nữa như đến từ Thiên Chúa.
Tôi muốn nhắc lại ở đây một lĩnh vực đặc biệt quan trọng khác: nó liên quan đến cách đối phó với bệnh tật và cái chết. Trong nghi lễ ngoại giáo, có những lời nói và cử chỉ vô cùng xúc động, nhưng cũng có sự độc đoán lợi dụng thách thức do bệnh tật và cái chết gây ra để lần lượt phát huy sức mạnh của nó. Ngày nay cũng như trong quá khứ, sức mạnh của các pháp sư làm ô uế bộ mặt của các tôn giáo bộ lạc. Một biểu hiện thiết yếu của mối quan hệ với người chết trong tất cả các tôn giáo bộ lạc là thờ cúng tổ tiên, phần lớn trong quá khứ được coi là đối lập với tầm nhìn của Kitô giáo về sự sống và cái chết. Dựa trên kinh nghiệm của mình, Horst Bürkle đã đề xuất một cách phân bổ và trình bày mới về thờ cúng tổ tiên mà theo tôi có vẻ đáng xem xét. Ông cho thấy rằng chủ nghĩa cá nhân phát triển ở phương Tây và đưa ra sự phản kháng mạnh mẽ nhất đối với việc thờ cúng tổ tiên, trên thực tế, cũng đi ngược lại với nhân học Kitô giáo coi chúng ta như được bảo vệ trong Nhiệm thể Chúa Kitô. Mối quan hệ của con người với Chúa Kitô không chỉ là mối quan hệ Tôi-Bạn mà còn tạo ra một Chúng tôi mới. Hiệp thông với Đức Giêsu Kitô đưa chúng ta vào Thân thể Chúa Kitô, nói cách khác, vào cộng đồng vĩ đại của tất cả những người thuộc về Chúa, và do đó, nó vượt ra ngoài ranh giới giữa cái chết và sự sống. Theo nghĩa này, sự hiệp thông với những người đi trước chúng ta là một phần thiết yếu của việc trở thành một Kitô hữu. Nó cho phép chúng ta tìm thấy những hình thức hiệp thông với người chết, mà có lẽ ở Châu Phi thể hiện khác với cách họ làm ở Âu châu, nhưng trong mọi trường hợp, nó cho phép chúng ta mang lại một sự chuyển đổi phong phú về ý nghĩa của việc thờ cúng tổ tiên.
Nhưng bây giờ câu hỏi đặt ra là làm thế nào niềm tin vào một vị thần có thể vượt qua thế giới của các vị thần. Nhà truyền giáo Ngôi Lời Thiên Chúa Wilhelm Schmidt, trong suốt cuộc đời làm việc của mình, đã duy trì luận điểm rằng niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất nảy sinh từ nguồn gốc của lịch sử tôn giáo và dần dần ngày càng bị che khuất bởi nhiều vị thần, cho đến khi nó có thể trấn áp các vị thần một lần nữa. Cuối cùng, chính ông thừa nhận rằng một sự phát triển như vậy không thể được chứng minh. Thay vào đó, bằng cách nào đó, người ta luôn biết rằng các vị thần không chỉ đơn giản là số nhiều của Thượng đế. Chúa là Chúa ở số ít. Anh ta tồn tại duy nhất trong sự thống nhất. Đa số các vị thần hoạt động ở một cấp độ khác. Trên thực tế, thế giới với các khu vực khác nhau được cai trị bởi các vị thần chỉ có thể thống trị một phần của họ. Đối với Chúa duy nhất, những gì Erik Peterson đã viết về ông trong chuyên khảo quan trọng đầu tiên của ông Thuyết độc thần như một vấn đề chính trị là đúng: “Le roi règne, mais il ne gouverne pas” [Vua trị vì, nhưng ông không cai trị]. Trong suốt lịch sử của các tôn giáo, Thiên Chúa được coi là một vị vua có quyền lực đối với mọi thứ nhưng không thực thi quyền lực đó. Một Thiên Chúa có thật không cần thờ phượng, vì Người không đe dọa ai và không cần ai giúp đỡ. Sự tốt lành và quyền năng của một Thiên Chúa đích thực đồng thời quyết định sự tầm thường của Người. Anh ta không cần chúng ta, và con người nghĩ rằng anh ta không cần Thiên Chúa. Với sự gia tăng niềm tin vào các vị thần, ngày càng có nhiều người khao khát rằng Thượng đế thực sự với quyền năng của mình có thể giải phóng con người khỏi chế độ sợ hãi mà trong đó niềm tin vào các vị thần đã phát triển mạnh mẽ. Theo niềm tin của các Kitô hữu, đây chính là điều đã xảy ra với Đức Giêsu: vị Thiên Chúa duy nhất đã đi vào lịch sử các tôn giáo và hạ bệ các vị thần. Henri de Lubac đã đặc biệt chứng minh rằng Kitô giáo được coi là sự giải thoát khỏi nỗi sợ hãi mà sức mạnh của các vị thần đã xiềng xích con người. Về cơ bản, thế giới hùng mạnh của các vị thần đã sụp đổ vì một vị thần duy nhất bước vào hiện trường và đặt ra giới hạn cho sức mạnh của họ.
Tôi đã cố gắng mô tả sự kiện này chi tiết hơn một chút trong tuyển tập các tác phẩm Thiên Chúa trên trần thế [Gott in Welt] xuất bản nhân dịp sinh nhật lần thứ sáu mươi của Karl Rahner, và tôi có thể chứng minh rằng có hai cách thoát khỏi niềm tin vào các vị thần. Đầu tiên, các tôn giáo độc thần bắt nguồn từ Ápraham, trong đó một Thiên Chúa với tư cách là một người gây ra cả thế giới. Bên cạnh đó, còn có một lối thoát thứ hai, đó là các tôn giáo thần bí với Phật giáo Tiểu thừa là hình thức trung tâm. Ở đây không có một Thượng đế cá nhân nào, mà đúng hơn là ngay cả Thượng đế duy nhất cũng bị tan biến và trở nên phù du. Con đường của Đức Phật hướng đến sự hủy diệt. Trên thực tế, hình thức giải thể thần bí nghiêm trọng này của tất cả các nhân vật riêng lẻ đã không chiếm ưu thế, nhưng trong thời gian gần đây, nó luôn được coi là mô tả cuối cùng và có được sức hấp dẫn mạnh mẽ chính xác trong các nền văn hóa từng là Kitô giáo của Âu châu. Trong thế giới nói tiếng Đức, người ta tìm thấy một thành ngữ trong câu được cho là của Karl Rahner: “Kitô hữu tương lai sẽ là một nhà thần bí, nếu không họ sẽ không còn tồn tại nữa – The Christian of tomorrow will be a mystic, or else he will no longer exist.”
Rõ ràng điều này dự kiến một sự nội tâm hóa và đào sâu đức tin bên trong. Tôi sẽ không cố gắng làm rõ ý của Rahner qua câu này. Ngược lại, đối với nhiều người, nó chỉ che giấu chương trình trình bày tất cả các hình thức đức tin cụ thể như thứ yếu để cuối cùng đi đến một lòng mộ đạo khách quan, giống như chương trình mà Luise Rinser [1911–2002, tác giả tiểu thuyết và truyện ngắn] đề cập như một hình thức ưu việt của việc trở thành Kitô hữu mà cô ấy đã theo đuổi trong thời gian chờ đợi.
Nhà văn người Đức giải thích với cá nhân tôi rằng mục đích công bố thư từ của bà với Karl Rahner là để chứng minh rằng bà là một nhà thần bí và rằng cuộc hành trình tâm linh dài mà bà đã thực hiện với Rahner trong những năm công đồng và hậu công đồng cuối cùng đã dẫn đến sự giải thích thần bí của Kitô giáo. Tôi không hiểu rõ ý định của Luise Rinser trong việc lôi kéo Rahner vào việc biến Kitô giáo thành một tôn giáo thần bí ở mức độ nào. Trong mọi trường hợp, cô ấy muốn đưa ra lời giải thích về cụm từ nổi tiếng của Rahner như một sự mở ra cho tương lai.
Trên thực tế, cách giải thích Kitô giáo như vậy mâu thuẫn với ý định sâu xa nhất và cấu hình lịch sử cụ thể của nó. Đối với một Kitô giáo, Thiên Chúa, Đấng trong Đức Giêsu Kitô tự ràng buộc trái tim và bàn tay của mình với loài người chúng ta và Đấng đã chịu làm người vì chúng ta và giữa chúng ta cho đến chết và bên kia cái chết, là trung tâm của Kitô giáo. Toàn bộ cuộc tranh cãi trong lịch sử các tôn giáo giữa Thượng đế và các vị thần không kết thúc với sự kiện là chính Thượng đế cuối cùng cũng biến mất như một sự tôn sùng. Thay vào đó, nó kết thúc với chiến thắng của Thiên Chúa chân chính duy nhất trước các vị thần không phải là Thiên Chúa. Do đó, nó kết thúc với món quà tình yêu giả định trước sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, đối với con người cũng vậy, nó kết thúc bằng việc con người hoàn toàn trở thành một con người bằng cách đón nhận hồng ân được Thiên Chúa yêu thương và trao ban cho con người.
CHƯƠNG 2: CÁC YẾU TỐ CƠ BẢN CỦA TÔN GIÁO KITÔ
Thuyết độc thần và sự khoan dung[9]
Sau khi lần đầu tiên đề cập đến mối liên hệ giữa thuyết độc thần và sự bất khoan dung, về cơ bản vẫn còn ở bề nổi, Eckhard Nordhofen đã giải quyết vấn đề một cách chi tiết hơn trong chuyên khảo sâu rộng của ông, tạm dịch là: “Tuyển tập. Sức mạnh hỗn loạn của thuyết Độc thần – Corpora. Die anarchische Kraft des Monotheismus.[10] Tuy nhiên, tôi có ấn tượng rằng khía cạnh lịch sử thuần túy có thể được nghiên cứu khám phá sâu hơn. Chính vì vậy, bài tiểu luận này đã ra đời, trong đó tôi tìm cách đưa ra một cái nhìn thoáng qua về sự phức tạp của những gì đã xảy ra. Tôi nghĩ rằng những gì từ quá khứ xa xôi cũng có ảnh hưởng đến hiện tại thì nó cũng sẽ tự động xuất hiện, và do đó, không cần phải thảo luận theo cách phân tích. Điều này đặc biệt đúng đối với đoạn cuối, trong đó, nhìn bề ngoài, sức mạnh to lớn của văn hóa và tôn giáo Hy Lạp – được hiểu như một lực lượng khoan dung hiện đại – bắt gặp hiện tượng bất khoan nhượng và không thể khoan nhượng của một nhóm thù địch với quan điểm khai sáng, tức là Do Thái giáo, và vì lý do này mà nó trở nên bất khoan dung. Tuy nhiên, từ quan điểm ngày nay, cũng có thể có một đánh giá khác về tình hình lúc bấy giờ: những Kitô hữu chúng ta, những người dứt khoát coi hình thức thiết yếu nơi đức tin của chúng ta là bắt nguồn từ Do Thái giáo, nhận thấy mình chính là nạn nhân của tình trạng bất khoan dung ngày càng gia tăng, được thực hiện ngay trong thế giới này, nhân danh sự khoan dung. Trong bài tiểu luận này của tôi, tôi đã cố tình không nói về những vấn đề thời sự trong quá khứ; Tôi xin để lại nhiệm vụ này cho quý độc giả tự suy gẫm.
Tuy nhiên, sự phức tạp của quá trình bắt đầu từ rất sớm. Ví dụ, trong tình tiết nổi tiếng về con bê bằng vàng (x. Xh 32), vấn đề không chỉ đơn giản là vấn đề tuyên xưng một Thiên Chúa duy nhất, mà còn là mối tương quan trung tín của dân Israel với Thiên Chúa của mình, mối tương quan đã thất bại vì dân chúng đã biến Thiên Chúa thành một bức tượng. Mục đích của đoạn văn này không phải là để bảo vệ tính duy nhất của Thiên Chúa mà đúng hơn là để lên án sự bất trung của dân Israel, một dân tộc, qua Giao ước, đã bước vào một kiểu tương quan trung thành đặc biệt với Thiên Chúa.
Việc xem xét sự hiểu biết về “thuyết độc thần” trong sách Giôsuê, sách Thủ Lãnh và sách Các Vua, với các đoạn tương ứng, sẽ dẫn chúng ta đi quá xa. Vì vậy, tôi chỉ muốn phân tích ngắn gọn đoạn sách Giôsuê, chương 24,15-28, bởi vì ở đó chúng ta tìm thấy phần trình bày về mối tương giao của dân Israel với Thiên Chúa của họ, mối tương giao mang tính quyết định đối với tất cả mọi việc tiếp theo. Dân Israel tự do chấp nhận Giao ước độc quyền với Thiên Chúa, trong khi họ có cơ hội rõ ràng để từ chối Giao ước đó, và như vậy, được giải phóng khỏi các nghĩa vụ, vốn đặt ra trong Giao ước đối với Thiên Chúa. Mối ràng buộc độc nhất này với Giavê Thiên Chúa, và kết quả là loại trừ tất cả các ngẫu thần khác, cũng như cuộc đấu tranh chống lại chúng, không được trình bày như một hệ quả của thuyết độc thần trừu tượng, mà đúng hơn là kết quả duy nhất từ mối tương quan Giao ước cụ thể với Thiên Chúa, Đấng dành cho Israel, là một vị Thiên Chúa duy nhất, và là Đấng có thể tuyên bố độc quyền cho mình một cách hiệu quả một vùng đất dường như thuộc về các vị thần khác. Tuy nhiên, cần phải nói thêm rằng, ở một giai đoạn khác của lịch sử thánh thiêng, sự bất khoan dung đối với các dân tộc trước đây đã từng sinh sống trên miền Đất hứa, dường như được thúc đẩy bởi một động lực khác. Ở đó, người ta nói rằng những dân tộc này đã làm ô uế quá mức các vùng lãnh thổ, bằng những điều ghê tởm mà các vị thần của họ mong muốn – đặc biệt là bằng việc hiến tế chính con người – đến nỗi họ không còn bất kỳ quyền nào đối với vùng đất đó nữa; và người ta nói rằng Giavê Thiên Chúa đã ban vùng đất đó cho Israel để người dân của họ có thể sống ở đó theo Lề luật của Người, khôi phục lại phẩm giá cho vùng đất đó. Trên thực tế, một phần đáng kể dân số trước đây vẫn còn ở lại vùng đất đó, và kết quả là dân Israel đã không sống trọn vẹn theo thánh ý Thiên Chúa, đồng thời cũng dạy các dân tộc khác sống công bình. Thay vào đó, điều ngược lại đã xảy ra: dân Israel đi chệch khỏi lối sống đã được ban cho mình và buông theo lối sống của những dân ngoại đó. Mặt khác, trong trường hợp này cũng vậy, điều định nghĩa “sự bất khoan dung” của họ đối với các dân tộc khác không phải là thuyết độc thần trừu tượng, mà đúng hơn là mối ràng buộc giữa luân lý và đức tin, điều đó cũng âm thầm kêu gọi lý trí làm chứng cho hành động đúng đắn của Thiên Chúa.
Những quan điểm thiết yếu liên quan đến vấn nạn về mối tương quan giữa thuyết độc thần và lòng khoan dung cũng có thể được tìm thấy trong câu chuyện về vua Salômôn và những người phụ nữ, vì yêu chiều họ mà ông đã xây dựng các đền thờ để tôn vinh các ngẫu thần của họ. Một mặt, Salômôn xuất hiện với tư cách là vị vua lý tưởng, với tư cách là bậc thầy về sự khôn ngoan, người thông qua các cuốn sách khôn ngoan, tiếp tục nói với thần dân của mình, và nói bao quát hơn, là với cả nhân loại này. Nhưng mặt khác, sự thành công đã quyến rũ ông ta, dẫn ông ta đến một lối sống buông thả – trong đó có một hậu cung lớn – bao gồm cả việc xây dựng các đền thờ của thế giới ngoại giáo. Theo tiêu chí hiện đại, có thể nói rằng Salômôn là một vị vua khai sáng, người đã tạo không gian cho nhiều tôn giáo khác nhau cùng hiện hữu, từ đó cho phép họ có sự khoan dung lẫn nhau. Sử sách chính thức của Israel có quan điểm mâu thuẫn về ông. Một mặt, Salômôn được trình bày như vị vua vĩ đại và khôn ngoan, người đã được ban cho quyền trị vì kéo dài bốn mươi năm. Nhưng đồng thời, chính trong thời gian trị vì của ông, đã khai mào sự chia rẽ tiếp theo giữa Israel và Giuđa, và lòng khoan dung tôn giáo của ông bị chê bai là đã từ bỏ sự khôn ngoan và sa vào sự ngu ngốc tột cùng trong việc thờ ngẫu tượng. Trong Tân ước, câu chuyện về thánh Stêphanô cho thấy ngôi đền thờ lộng lẫy mà Salômôn xây lên thay thế cho Lều thánh, tượng trưng về mặt tâm linh cho sự chuyển đổi sang lòng mộ đạo giả dối, bởi vì Thiên Chúa chân thật thì không ngự trong những tòa nhà bằng gỗ đá, mà vẫn là một Thiên Chúa đang đồng hành tiến bước.
Các vấn đề hoàn toàn khác dưới triều đại của vua Akháp. Vì tình yêu với người vợ ngoại giáo của mình, bà I-de-ven, vua Akháp đã ban cho các vị thần của hoàng hậu I-de-ven tất cả không gian mà bà ấy muốn; chính vì lý do này, mà ông ta xuất hiện với tư cách là nguyên mẫu của một vị vua tồi tàn xấu xa, mặc dù từ các sự kiện được thuật lại, rõ ràng rằng, trong giới hạn của những gì có thể xảy ra, và có thể được mong đợi sau đó, ông ta là một vị vua tốt cho dân của mình: khi ông bị trọng thương trong cuộc chiến chống lại dân Syria, toàn thể dân Israel đã thương tiếc cho cái chết của ông. Cuộc đụng độ kịch tính giữa thuyết độc thần (niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất) và sự sai lầm của việc thờ ngẫu tượng đã diễn ra trong cuộc xung đột giữa ngôn sứ Êlia và hoàng hậu I-de-ven. Do chính sách của I-de-ven, Êlia vẫn là vị ngôn sứ của một vị Thiên Chúa duy nhất, Thiên Chúa của Sinai, và đã bị 450 ngôn sứ của Baal phản đối. Sự phán xét của Thiên Chúa, vốn được cả hai bên nhìn nhận, đã được Êlia thi hành bằng việc tàn sát tất cả các ngôn sứ của thần Baal. Do đó, trên thực tế, chiến thắng mà thuyết độc thần giành được dường như đặt ngôn sứ Êlia về phía cánh hữu, nhưng sự cân bằng quyền lực thực sự đã đe dọa Êlia, cả tâm hồn lẫn thể xác, và buộc ông phải chạy trốn. Êlia quay trở lại con đường hướng tới ngọn núi của Đức Chúa, núi Sinai, để nhận những chỉ dẫn mới ở đó. Theo một cách giải thích vẫn còn gây tranh cãi, về cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa dành cho Êlia, nên được hiểu là sự lên án bạo lực được sử dụng trong cuộc chiến chống lại các vị thần. Thiên Chúa không ở trong lửa và không ở trong bão tố; mà sự hiện diện của Người được cảm nhận trong tiếng gió hiu hiu.
Khoảng ba trăm năm sau, khi bắt đầu hoạt động của phần thứ hai của sách Isaia [Deutero-Isaiah][11], chúng ta lại bắt gặp tiếng nói huyền nhiệm loan báo chấm dứt cuộc Lưu đày, giải phóng dân Israel. Nửa thiên niên kỷ sau, chúng ta lại nghe thấy nó một lần nữa, và bây giờ nó đã trở thành tiếng nói của một con người, đó là Gioan Tẩy Giả, một người cũng diễn ra quá trình chuyển tiếp từ Cựu ước sang Tân ước. Khi ý nghĩa của tiếng nói dần dần trở nên cụ thể, thì sự mặc khải cho Êlia trên núi Sinai trở nên rõ ràng trong phần phân tích cuối cùng: Thiên Chúa chiến thắng, không phải bằng bạo lực như Êlia đã thực hiện, nhưng qua vị Tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa, Đấng được chính Thiên Chúa can thiệp trong lịch sử. Ngay cả khi vấn nạn về ý nghĩa ban đầu được trao cho sự hiển linh của Êlia vẫn còn bỏ ngỏ, thì sự tái trình bày của điều đó trong sách ngôn sứ Isaia và nơi Gioan Tẩy Giả, vẫn cho phép chúng ta khẳng định rằng, trong đó một định nghĩa huyền nhiệm và mới mẻ được công bố để định hình vấn nạn về quyền năng và sự bất lực của Thiên Chúa trên trần gian này.
Bản thân Êlisê dù không tiếp tục chính sách bạo lực, dường như cũng chưa hiểu được phản ứng này. Thay vào đó, chính sách bạo lực được tiếp tục dưới triều đại của vua Giê-hu, với một chế độ cực kỳ đẫm máu dẫn đến cuộc tàn sát toàn bộ gia đình Akháp. Mặt khác, vua Giê-hu tuyên bố rằng theo cách này, ông đang làm theo chỉ dẫn của Êlisê. Kinh thánh không nói liệu ngôn sứ Êlisê có biết về chế độ bạo lực đó hay không, và nếu có thì cuối cùng ông có bày tỏ quan điểm của mình về vấn đề này hay không. Trong mọi trường hợp, rõ ràng là sự cai trị đẫm máu của vua Giê-hu, bất chấp thực tế là Êlisê đã trao cho ông nhiệm vụ đó, không còn liên quan gì hơn đến thuyết độc thần–với sự lựa chọn giữa một vị Thiên Chúa duy nhất và nhiều vị thần của Baal–mà chỉ liên quan đến một cuộc tranh giành quyền lực trong dân Israel.
Tuy nhiên, chúng ta hãy cố gắng phân tích kỹ hơn từng đoạn riêng lẻ của trình thuật này. Cuộc thảm sát kinh hoàng của Êlia nên được hiểu như một câu trả lời cho câu hỏi về Thiên Chúa hằng sống. Cuộc tàn sát do Êlia thực hiện trong sự im lặng của các thần Baal, và trước sự phản ứng mạnh mẽ của Thiên Chúa của ông. Do đó, nó không nên được hiểu là một chiến thắng của thuyết độc thần đối với thuyết đa thần. Thay vào đó, trong hoàn cảnh hiện tại, nó xuất hiện như một phản ứng cụ thể trước mối đe dọa chính đức tin mà dân Israel nhận được từ tổ tiên của họ đã phải đối diện. Đức tin của tổ tiên họ được bảo vệ trước sự kiêu ngạo của Hoàng hậu I-de-ven, người chỉ muốn dành chỗ cho các vị thần của mình. I-de-ven, một vai chính khác của bi kịch Cát Minh, kẻ đã mang theo các vị thần của mình và coi chúng là hiện thân cho sức mạnh của mình. Trên hết, bà bị quở trách vì đã đối xử với đức tin của dân Israel, được đại diện bởi Navốt, với sự hoài nghi quyền lực. Navốt xem vườn nho mà ông được thừa hưởng từ tổ tiên của mình như món quà của trái đất mà Thiên Chúa của Israel đã hứa với dân Người, và điều đó đối với ông được tượng trưng một cách cụ thể bởi vườn nho đó. Vườn nho đối với ông là sự tham gia của ông vào lời hứa, món quà tặng của đất đai nhận được từ tổ tiên của ông và ông được thừa kế. Lời đề nghị hào phóng của vua Akháp để đổi lấy một vườn nho có giá trị tương đương hoặc cao hơn không quan trọng đối với Navốt: điều quan trọng đối với ông là di sản của tổ tiên ông. Hoàng hậu I-de-ven chống lại đức tin này bằng một sự cao ngạo về quyền lực, vốn coi sự phỉ báng thậm chí là một phương tiện hiển nhiên để đạt được mục đích. Tác giả Cựu ước nhìn thấy ở đây bản chất của tôn giáo thờ thần Baal và thấy được thể hiện ở đây sự tương phản cơ bản với niềm tin vào Thiên Chúa của tổ tiên. Sự sùng bái thần Baal là sự sùng bái sinh sản, trong đó ranh giới giữa Thiên Chúa và con người bị tan biến đi: sự linh thánh bị hạ thấp, và phẩm giá của nó bị biến dạng trong một sự tiêu tan không thể so sánh được. Theo nghĩa này, các giáo phái sùng kính thần Baal bộc lộ chính mình là lý do thực sự dẫn đến sự hủy hoại đạo đức của người dân, từ đó mà đất nước cần phải được giải phóng.
Trên cơ sở này, chúng ta có thể hiểu ý nghĩa của điều răn thứ nhất trong Mười Điều Răn, vốn được coi là đòi hỏi căn bản đích thực, thiết yếu của luật Thiên Chúa một cách khá rõ ràng, mà các giới răn tiếp theo chỉ giải thích một cách cụ thể: một Thiên Chúa duy nhất thì vượt trên tất cả mọi thực tại của con người. Trong sự siêu việt thuần túy của chính mình, Thiên Chúa đồng thời là Đấng bảo đảm cho phẩm giá của con người. Cuộc đấu tranh cho Thiên Chúa hằng sống, chống lại thần Baal là cuộc đấu tranh cho công lý của con người, được thể hiện cụ thể qua điều răn thứ tư đến điều răn thứ mười. Ở đây, vấn nạn về sự khoan dung hay bất khoan dung của các tôn giáo vẫn còn bỏ ngỏ. Theo nghĩa này, đối với tôi, dường như không thể rút ra kết luận dứt khoát nào từ hành động của ngôn sứ Êlia trên Núi Cát Minh, liên quan đến vấn đề khoan dung hay bất khoan dung đối với thuyết độc thần. Quả thật, cuộc hành trình lên Núi Sinai đã mở ra một khái niệm mới mẻ, hơn nữa, khái niệm này sẽ chỉ được phát triển và khẳng định về sau này mà thôi.
Bây giờ chúng ta hãy cố gắng xác định chính xác hơn mối tương quan giữa niềm tin của dân Israel vào Thiên Chúa và tôn giáo thờ thần Baal. Đặc điểm quyết định đối với đức tin của dân Israel là sự kiện chỉ có một Thiên Chúa duy nhất hằng hữu trước dân Israel và tất cả các dân tộc khác trên trái đất. Mối tương quan của Thiên Chúa đối với thế giới nói chung có thể được định nghĩa là siêu việt. Ngược lại, đối với các tôn giáo sinh sản, với thần Baal của họ, điều quan trọng là không có ranh giới, không thể vượt qua giữa thế giới của thần thánh và thế giới của loài người. Thật vậy, bản chất của tôn giáo, như đối với Israel, không hệ tại ở sự vâng phục của con người đối với Thiên Chúa siêu việt, mà chính xác là ở việc đan xen những điều của con người với những thuộc về thần thánh. Cốt lõi của tôn giáo là mầu nhiệm vĩ đại về khả năng sinh sản, điều mà trong các tôn giáo [nguyên thủy] được thưởng thức và trải nghiệm về sự huy hoàng cũng như sức mạnh hủy diệt của nó. Bởi vì nhờ Thiên Chúa của Israel, những nghi lễ xen lẫn giữa thần thánh và con người bị coi là kiêu ngạo, xét cho cùng chính là sự hủy diệt thế giới và loài người, nên Israel phải bác bỏ tất cả những điều này. Do đó, hơi phiến diện, chúng ta có thể nói rằng việc sùng bái sinh sản là một tôn giáo của bản sắc, trong khi chúng ta có thể định nghĩa việc thờ phượng Thiên Chúa siêu việt như một tôn giáo của sự tuân phục. Như chúng ta đã thấy, nội dung của sự tuân phục này, được bao gồm trong Mười Điều Răn – mà theo một nghĩa nào đó có thể được coi là sự đại diện đích thực của Thiên Chúa. Bằng cách thực hành sự tuân phục này, con người trở thành hình ảnh của Thiên Chúa và giống như Người.
Nhìn vào sách ngôn sứ Amốt cung cấp thêm thông tin rõ ràng. Đối với tôi, điều quan trọng nhất là cách Amốt trình diện với nhà vua. Amátgia, tư tế đền thờ Bết Ên, thánh địa trung tâm của vương quốc phía bắc, nói với Amốt: “Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giuđa, […]! Nhưng ở Bết Ên này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều” (Am 7,12-13). Câu trả lời của Amốt cũng quan trọng không kém: “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung” (Am 7,14). Điều này có nghĩa là sứ điệp của Thiên Chúa độc lập khỏi chính trị, và có nghĩa là sự tự do của vị ngôn sứ trước quyền lực chính trị. Trong trường hợp cụ thể này, nó còn có ý nghĩa hơn thế nữa. Thật vậy, một đặc điểm trong hoàn cảnh cụ thể của Israel vào thời điểm đó là sự tương phản giữa dân số nông thôn và sự phát triển kinh tế đô thị, với sự giàu có ngày càng tăng của các thành phố và quyền lực của các cơ cấu xã hội của họ, điều gần như chắc chắn đã khiến dân cư nông thôn rơi vào tình trạng bần cùng hóa. Vì vậy, trong trường hợp cụ thể này, Amốt đã trở thành người đấu tranh cho sự bình đẳng và công bằng xã hội. Giống như sứ điệp của Thiên Chúa không phụ thuộc vào bất kỳ thẩm quyền nào của loài người, thì nó cũng biểu thị sự dấn thân thực hiện công lý đối với tất cả mọi người. Khi chúng ta phân tích bộ sách Ngũ kinh và các sách Lịch sử của Israel, yếu tố thứ ba nổi lên: sự quan tâm đến các góa phụ, trẻ mồ côi và khách ngoại kiều. Họ được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương và bảo vệ chở che.
Hơn nữa, một khía cạnh khác nên được xem xét. Sách Amốt bắt đầu với một loạt lời đe dọa trừng phạt các dân: những tai họa được báo trước một cách đáng kinh ngạc cho họ vì những hành vi sai trái mà họ đã gây ra. Những lời đe dọa trả thù các dân tộc khác rất phổ biến ngay cả bên ngoài Israel. Điều mới lạ, mà vị ngôn sứ thậm chí còn đảo ngược khuôn mẫu thông thường, hệ tại ở chỗ, đây là sự phán xét của Thiên Chúa lên đến đỉnh điểm, với sự phán xét chống lại chính dân của Người.[12] Mục đích hành động của Thiên Chúa cuối cùng là cứu rỗi tất cả mọi dân tộc: tính phổ quát được công bố ở đây có thể được coi là lý do cơ bản cho hành động của Thiên Chúa trong Cựu ước.
Trong mọi trường hợp, rõ ràng là không chính xác khi coi thuyết độc thần là một nhãn hiệu có thể áp dụng cho các tình huống lịch sử khác nhau, và có thể liên kết với các khái niệm cụ thể cho thời đại của chúng ta như sự khoan dung hoặc bất khoan dung.
Cuối cùng, chúng ta hãy nhìn vào thời Lưu đày và thời Macabê. Chỉ trong thời Lưu đày, thuyết độc thần mới phát triển trọn vẹn ở Israel. Cho đến thời điểm đó, rõ ràng là Israel chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, và tất cả các thần khác đều là ngẫu tượng. Nhưng liệu chúng có tồn tại hay không, và chúng được phân loại như thế nào về mặt hữu thể học là những vấn nạn nằm ngoài phạm vi lợi ích của Israel. Tuy nhiên, giờ đây Israel đã bị cướp mất đất đai, và điều này thường chấm dứt sự thiêng liêng của một quốc gia hay một dân tộc. Một vị thần không có khả năng bảo vệ người dân và đất đai của mình thì không thể là một vị thần. Ngược lại, ở Israel, người ta lại theo một lối suy nghĩ ngược lại. Thiên Chúa của Ápraham, của Isaác và Giacóp, Thiên Chúa của Sinai, Đấng cai trị toàn cõi địa cầu. Người có thể gửi dân của Người đến Ai Cập trong nhiều thế kỷ, có thể cứu họ khỏi sự tàn bạo của Pharaô, và có thể dẫn họ qua sa mạc để đến Đất hứa; và thậm chí ở đó, Người có thể khiến họ bị đánh bại và bị lưu đày sang Babylon. Người không phải là Thiên Chúa của một vùng đất cụ thể nào, cũng không chỉ là Thiên Chúa của một số người cụ thể nào đó mà thôi. Trong thời Lưu đày, khái niệm sáng tạo trở thành trung tâm. Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất. Một mình Người đã sáng tạo ra thế giới từ hư vô. Chỉ một mình Người mới thực sự là Thiên Chúa.
Đức tin của Israel khiến chúng ta phải đối mặt với nghịch lý này, đó là Thiên Chúa duy nhất trên tất cả các thần, đã tuyển chọn dân Israel, đã lôi kéo dân này về với mình bằng tình yêu của Người, mà không bị ràng buộc bởi bất kỳ cách nào. Thiên Chúa không cần bất kỳ nơi tôn nghiêm nào, bởi vì tất cả trái đất đều thuộc về Người. Như tác giả Thánh vịnh đã nói, thật là tuyệt vời khi tất cả trái đất chỉ là một vật nhỏ bé mà Người nắm giữ trong tay. Thiên Chúa có thể sử dụng sức mạnh của trái đất cho mục đích của mình và chọn Cyrus làm tôi tớ của mình, Đấng dẫn đưa Israel trở về vùng đất của mình. Rõ ràng là trong hoàn cảnh này, Israel không thể nghĩ đến việc tuyên bố vị Thiên Chúa này cho riêng mình thông qua sự bất khoan dung về chính trị. Trong hoàn cảnh lưu đày, dân Israel chỉ có thể tin tưởng phó thác vào trong tay Thiên Chúa, chỉ một mình Người mới có quyền năng trên tất cả mọi thực tại.
Tuy nhiên, điều này cũng có nghĩa là, trong cuộc tranh chấp với các dân tộc, Israel giờ đây cũng viện đến lý do chung: Thiên Chúa mà họ nói đến không chỉ có thể hiểu được trong đức tin của Israel. Rõ ràng là các tôn giáo đa thần không nghĩ mình có một nền tảng hợp lý, trong khi Thiên Chúa duy nhất mà Israel tin tưởng và tôn thờ cũng muốn được xác định và hiểu theo một quan điểm hợp lý về thế giới. Việc chế nhạo các vị thần có tai mà không nghe, có mắt mà không thấy, ở một khía cạnh nào đó, có thể bị coi là thô thiển; tuy nhiên, nó thể hiện chính xác bước tiến mới này đã được thực hiện đối với thuyết độc thần hoàn toàn. Điều này chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ với tư tưởng Hy Lạp, mà bản Bảy Mươi [Septuaginta] tự đưa ra như một công cụ, và sau đó được sử dụng lại một cách rõ ràng trong văn chương khôn ngoan sau này. Bằng cách này, cuộc gặp gỡ, được thực hiện một cách dứt khoát trong Kitô giáo, giữa tư tưởng triết học và đức tin của dân Israel cũng đã được chuẩn bị.
Tư tưởng của Socrates, vừa sùng đạo vừa phê phán, theo cách riêng của nó, đã có tác dụng bộc lộ bản chất hão huyền của các vị thần. Ngày nay chúng ta thấy mình phải đối mặt với sự chuyển động trái ngược của não trạng nhân thế. Tư duy hiện đại không còn muốn thừa nhận chân lý của hiện hữu, mà muốn giành lấy quyền lực đối với sự hiện hữu. Nó muốn định hình lại thế giới theo nhu cầu và mong muốn của chính nó. Với định hướng này – không phải hướng tới chân lý mà là quyền lực – chắc chắn chúng ta chạm đến vấn đề thực sự của thời điểm hiện tại, vấn đề mà chúng ta sẽ còn phải trở lại ở phần kết luận.
Chúng ta hãy xem xét lại sách Macabê. Một không gian văn hóa rộng lớn của Hy Lạp nảy sinh từ những chiến thắng của Alexander Đại đế, nơi đã có được hình thức văn hóa và chính trị ở các vương quốc Diadochi [Διάδοχοι]. Những hình thức sống truyền thống vốn cản trở sự thống nhất đang được thiết lập, phải bị bãi bỏ để ủng hộ nền văn hóa nguyên khối [monolithic] thống nhất gắn kết mọi thứ lại với nhau. Do đó, rõ ràng là, cùng với những hình thức khác, các hình thức sống của người Do Thái được quy định bởi bộ Ngũ kinh (cắt bì, giới luật ăn kiêng, v.v…) cũng phải biến mất, vì chúng không tương thích với nhà nước thống nhất hiện đại; cũng như đức tin, lối sống và ngôn ngữ của Israel không tương thích với mô hình văn hóa thống nhất mới.
Một bộ phận không nhỏ của người Israel rõ ràng đã vui mừng chào đón sự hợp nhất của họ với lối sống khai sáng hiện đại do chủ nghĩa Hy Lạp; những người khác xa lánh nó, vì nó thiếu các lựa chọn thay thế. Nhưng cả đức tin lẫn các hình thức sống của dân Israel, trong đó ngôn ngữ cũng là một phần, sớm muộn gì cũng gặp phải phản ứng. Sách Macabê quyển thứ nhất, mô tả một cách hiệu quả cách Máttítgia, một con người có thẩm quyền và rất được kính trọng, đã nổi dậy chống lại những yêu sách đó, từ chối những lời hứa của xã hội mới và chống lại đại sứ của nhà vua. Ông phản đối những lời hứa hẹn giàu có to lớn dành cho ông, cũng như yêu cầu dâng của lễ cho các tượng thần. “Ông Máttítgia lớn tiếng đáp lại: “Cho dù tất cả các dân tộc trong vương quốc của vua có nghe lời vua và ai cũng chối bỏ việc thờ phượng của cha ông mình và tuân theo lệnh vua, thì tôi, các con tôi và anh em tôi, chúng tôi vẫn trung thành với Giao ước của cha ông chúng tôi. Không đời nào chúng tôi bỏ Lề luật và các tập tục! Chúng tôi sẽ không tuân theo lệnh vua mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi để xiêu bên phải, vẹo bên trái” (1Mcb 2,19-22).
Sau khi những lời này được nói ra, khi một người Do Thái chuẩn bị hiến tế trên bàn thờ ngoại giáo theo yêu cầu của nhà vua: “Trước cảnh tượng đó, ông Máttítgia bừng lửa nhiệt thành, ruột gan ông sôi sục, lòng đạo đức khiến ông nổi giận đùng đùng: ông nhào tới hạ sát hắn ngay tại bàn thờ. Ông cũng giết luôn viên chức của vua có nhiệm vụ cưỡng bức người Do Thái tế thần” (1Mcb 2,24-25). Sách Macabê biện minh cho hành động này là sự khôi phục lại “lửa nhiệt thành” mà sách Dân Số (x. Ds 25,7tt) đã nói khi liên quan đến hành động của Pin-khát. “Lửa nhiệt thành” giờ đây đã tăng lên mức độ của một nguyên tắc cơ bản trong cuộc nổi dậy chống lại nền văn minh Hy Lạp nguyên khối: Máttítgia chạy trốn lên núi, và nhiều người đi theo anh ta. Khi nó đã phát sinh theo cách này, phong trào Macabê đã có thể chống lại sức mạnh quân sự của nhà nước và thành lập một nhà nước Israel mới được thành lập dựa trên đức tin, trong đó Đền thờ Giêrusalem cũng được tái lập.
Phong trào Macabê được thành lập dựa trên sự trung thành dứt khoát của Israel với bản sắc riêng của mình. Sự chung thủy này hoàn toàn không được hiểu là sự gắn bó cứng nhắc với những truyền thống cổ xưa nhưng giờ đã lỗi thời. Vì Thiên Chúa của Israel là Thiên Chúa thật, Đấng cũng có thể được biết đến một cách hợp lý, nên trung thành với luật pháp của Ngài là trung thành với sự thật. Chắc chắn tinh thần của phong trào này không bị nắm bắt bằng cách dán nhãn không khoan dung độc thần lên nó. Đúng hơn, đây là cuộc đối đầu giữa sự không khoan dung của nhà nước hiện đại (cùng với lối sống duy nhất mà nó coi là hợp lệ) và sự trung thành với đức tin của những người cha (cùng với lối sống phù hợp với nó).
Một cái nhìn về bối cảnh đương đại được yêu cầu ở đây. Trên thực tế, nhà nước hiện đại ở thế giới phương Tây, một mặt, tự coi mình là một lực lượng khoan dung vĩ đại, phá vỡ những truyền thống ngu ngốc, phi lý của tất cả các tôn giáo. Hơn nữa, với việc thao túng con người một cách triệt để và bóp méo giới tính thông qua hệ tư tưởng giới tính, nó chống lại Kitô giáo theo một cách đặc biệt. Tuyên bố độc tài này luôn đúng, do tính hợp lý rõ ràng, đòi hỏi phải từ bỏ nhân học Kitô giáo và lối sống bắt nguồn từ nó, vốn được coi là phi lý trí. Sự không khoan dung đối với tính hiện đại rõ ràng này đối với đức tin Kitô giáo vẫn chưa biến thành cuộc đàn áp công khai nhưng lại thể hiện theo một cách ngày càng độc đoán và lập pháp theo đó, nhằm đạt được mục tiêu tiêu diệt những gì thực chất là Kitô giáo. Thái độ của Máttítgia – “Chúng tôi sẽ không tuân theo lệnh vua” (luật pháp hiện đại) – là thái độ của Kitô hữu. Tuy nhiên, “lòng nhiệt thành” của Máttítgia không phải là hình thức thể hiện lòng nhiệt thành của Kitô hữu. “Lòng nhiệt thành” đích thực lấy hình thức cốt yếu từ thập giá Đức Giêsu Kitô.
Cuối cùng, chúng ta hãy cố gắng rút ra một số kết luận từ việc xem lướt qua một số giai đoạn của lịch sử đức tin Cựu ước vào một Thiên Chúa duy nhất.
Trước hết, chúng ta có thể khẳng định không cần bàn cãi thêm rằng thuyết độc thần trong lịch sử xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Do đó, nó không thể được định nghĩa một cách rõ ràng theo cùng các tiêu chí hiện đại như một hiện tượng nguyên khối. Người ta đi đến thuyết độc thần, theo nghĩa chặt chẽ của thuật ngữ này theo cách sử dụng hiện đại của nó, chỉ khi nó gắn liền với câu hỏi về sự thật. Ở Israel, đoạn văn này xuất hiện một cách cơ bản bắt đầu từ cuộc Lưu đày, mặc dù không theo nghĩa suy tư triết học đích thực và thích hợp. Biến cố cách mạng, xét từ góc độ lịch sử các tôn giáo, xảy ra với sự chấp nhận niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất của người Kitô hữu, vốn đã được chuẩn bị trên khắp lòng chảo Địa Trung Hải bởi nhóm “những người kính sợ Thiên Chúa”. Mặt khác, sự khẳng định dứt khoát về tuyên bố phổ quát về một Thiên Chúa duy nhất vẫn bị cản trở bởi thực tế là Thiên Chúa duy nhất này đã tự ràng buộc mình với Israel, và do đó, Người chỉ có thể tiếp cận hoàn toàn ở Israel; những người ngoại giáo có thể tôn thờ Người, cùng với Israel, nhưng không thể hoàn toàn thuộc về Người. Chỉ có đức tin Kitô giáo, với tính phổ quát của nó mà thánh Phaolô đã dứt khoát bảo đảm, giờ đây cho phép Thiên Chúa duy nhất có thể được tôn thờ cách cụ thể cũng nơi Thiên Chúa của Israel, Đấng đã tỏ mình ra. Cuộc gặp gỡ do sứ mệnh Kitô giáo mang lại giữa “Thiên Chúa của các triết gia” và Thiên Chúa cụ thể của tôn giáo Do Thái là biến cố cách mạng hóa lịch sử phổ quát.
Trong phân tích cuối cùng, sự thành công của nhiệm vụ này dựa trên cuộc gặp gỡ đó. Như vậy đức tin Kitô giáo đã có thể tự hiện diện trong lịch sử như là tôn giáo đích thực (religio vera). Tuyên bố của Kitô giáo về tính phổ quát dựa trên sự mở rộng của tôn giáo đối với triết học. Đây là cách giải thích tại sao, trong sứ mệnh phát triển từ thời cổ đại của Kitô giáo, Kitô giáo không coi mình là một tôn giáo mà trước hết là sự tiếp nối của tư tưởng triết học, hay nói cách khác là sự tìm kiếm chân lý của con người. Thật không may, điều này đã ngày càng bị lãng quên trong thời kỳ hiện đại. Tôn giáo Kitô hiện được coi là sự tiếp nối của các tôn giáo trên thế giới và bản thân nó được coi là một tôn giáo trong số hoặc trên các tôn giáo khác. Do đó, “hạt giống của Logos”, mà thánh Clementê Alexandria nói về xu hướng của lịch sử tiền-Kitô giáo đối với Chúa Kitô, thường được đồng nhất với các tôn giáo, trong khi chính thánh Clementê Alexandria coi chúng là một phần của quá trình tư tưởng triết học trong đó con người suy nghĩ tiến bộ bằng cách thử và sai đối với Chúa Kitô.
Chúng ta hãy trở lại câu hỏi về lòng khoan dung. Cuộc thảo luận trước đây có nghĩa là Kitô giáo tự hiểu về cơ bản là sự thật và dựa trên cơ sở này để tuyên bố về tính phổ quát của nó. Nhưng chính tại thời điểm này, sự phê phán Kitô giáo đương thời đã can thiệp, vốn coi yêu sách về sự thật là không khoan dung. Chân lý và lòng khoan dung dường như trái ngược nhau. Sự không khoan dung của Kitô giáo sau đó sẽ được kết nối chặt chẽ với yêu sách của nó đối với sự thật. Cơ sở của khái niệm này là sự nghi ngờ rằng bản thân sự thật là nguy hiểm. Vì lý do này, xu hướng cơ bản của tính hiện đại ngày càng rõ ràng hướng tới một hình thức văn hóa độc lập với sự thật. Nền văn hóa hậu hiện đại–nền văn hóa biến con người thành kẻ sáng tạo của riêng mình và tranh cãi về món quà ban đầu của sự sáng tạo–biểu lộ ý chí tái tạo thế giới trái ngược với sự thật của nó. Trước đây chúng ta đã thấy chính thái độ này nhất thiết dẫn đến sự không khoan dung như thế nào.
Nhưng đối với mối quan hệ giữa sự thật và lòng khoan dung, lòng khoan dung gắn liền với bản chất của sự thật. Trong khi đề cập đến cuộc nổi dậy của Macabê, chúng ta đã thấy một xã hội chống lại sự thật là chế độ toàn trị và do đó cực kỳ không khoan dung như thế nào. Về phần sự thật, tôi chỉ muốn nói về Origen. “Đấng Kitô không thắng được kẻ nào không sẵn lòng. Người chinh phục chỉ bằng sự thuyết phục. Người là Ngôi Lời của Thiên Chúa không phải vì điều gì cả.”[13] Nhưng cuối cùng, như một đối trọng đích thực đối với mọi hình thức bất khoan dung, chính là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Chiến thắng của đức tin luôn luôn chỉ có thể đạt được trong sự hiệp thông với Đức Giêsu Chịu Đóng Đinh. Thần học về Thập giá là câu trả lời của Kitô giáo cho câu hỏi về tự do và bạo lực; và trên thực tế, ngay cả trong lịch sử, Kitô giáo chỉ giành được những chiến thắng nhờ vào những người bị đàn áp chứ không bao giờ đứng về phía những kẻ đàn áp.
Đối thoại Kitô giáo – Hồi giáo[14]
Tôi thường xuyên có dịp quan sát thấy rằng không chỉ các cuộc đối thoại Kitô giáo-Hồi giáo được đặc trưng, theo chủ đề, bởi sự thiếu hiểu biết về các bản văn thiêng liêng của Kitô giáo và Hồi giáo, mà thậm chí chúng còn được đóng khung không chính xác về mặt cấu trúc. Một mặt, người ta nhấn mạnh rằng cả Kinh Koran [Qur’an][15] và Kinh thánh Kitô giáo đều nói về lòng thương xót của Thiên Chúa, và do đó, mệnh lệnh phải yêu thương là hiện hữu, và mặt khác, bạo lực cũng được dạy trong cả hai bản văn. Và vì vậy, như thể đặt mình lên trên hai tôn giáo và nguồn gốc của chúng, người ta khẳng định: cả hai đều có mặt tốt và mặt xấu; do đó, điều cần thiết là chúng ta phải giải thích các bản văn theo cách giải thích về tình yêu bằng cách phản đối bạo lực, liên quan đến cả hai.
Cách tiếp cận này bỏ qua những khác biệt cơ bản về cấu trúc đề cập đến các cấp độ khác nhau.
- Kinh Koran là một cuốn sách được phát triển trong nhiều tình huống khác nhau trong suốt cuộc đời của Mohammad. Tuy nhiên, cuốn sách này được coi không phải là tác phẩm của một con người, mà là được Thiên Chúa trực tiếp soi dẫn và do đó tuyên bố, trong mọi phần của nó, sở hữu một thẩm quyền đến từ Thiên Chúa.
Ba yếu tố cơ bản về mặt cấu trúc giúp phân biệt Kinh thánh Kitô giáo với Kinh Koran:
– Kinh thánh của các Kitô hữu không phải là một cuốn sách mà đúng hơn là một bộ sưu tập, đã trưởng thành trong lịch sử khoảng một nghìn năm, gồm các cuốn sách khác nhau với một tuyên bố thần học khác nhau. Theo đức tin của người Do Thái cũng như của người Kitô hữu, họ không bị Thiên Chúa sai khiến trực tiếp, nhưng đúng hơn, đến từ Người theo một cách khác, là một diễn giải về hành trình mà cộng đồng dân Chúa thực hiện dưới sự hướng dẫn của Người. Chúng là Lời Chúa qua trung gian lời của con người. Thẩm quyền của họ là khác nhau, và các phần riêng lẻ chỉ có thể được hiểu một cách chính xác trong toàn bộ hành trình mà họ đại diện.
– Trong nền văn học thiên niên kỷ đa dạng này, đối với Kitô hữu, có một phân khu định tính hơn nữa, phân khu giữa Cựu ước và Tân ước. Tân ước cũng vậy, là một tuyển tập gồm nhiều sách khác nhau, chỉ có thể được hiểu như một tổng thể và theo nghĩa của tổng thể này. Đối với người Do Thái, chỉ có Cựu ước là “Kinh thánh”. Tuy nhiên, đối với các Kitô hữu, chỉ có thể hiểu Cựu ước một cách chính xác theo cách giải thích mới mà nó có trong lời nói và hành động của Đức Giêsu Kitô. Tân ước đưa ra bằng chứng hợp lệ cho cách giải thích này. Hai tuyển tập bản văn–Cựu ước và Tân ước–liên quan đến nhau theo cách mà Tân ước là chìa khóa giải thích Cựu ước. Theo quan điểm của Kitô hữu, chỉ khi xét về Tân ước, chúng ta mới có thể xác định ý nghĩa thần học lâu dài của Cựu ước là gì.
– Vì lý do này, không thể nói về sự soi dẫn bằng lời của Kinh thánh. Ý nghĩa và thẩm quyền của các phần riêng lẻ chỉ được thu thập một cách chính xác từ toàn bộ Kinh thánh và dưới ánh sáng của sự tái lâm của Đấng Kitô.
- Tất cả những điều này có nghĩa là đức tin Kitô giáo không phải là một tôn giáo trong sách.[16]Sách Thánh chỉ nói trong cộng đoàn sống động của Giáo hội. Có một sự trao đổi kép ở đây, một mối quan hệ của cấp dưới và cấp trên. Một mặt, Giáo hội rõ ràng phụ thuộc vào Lời Chúa, vì Giáo hội phải luôn để cho Lời hướng dẫn và phán xét mình; mặt khác, Kinh thánh, xét về tổng thể, chỉ có thể được giải thích thỏa đáng trong Giáo hội hằng sống.
Vị trí này, được toàn thể Giáo hội chấp nhận cho đến thế kỷ XVI, đã bị bác bỏ trong cuộc Cải cách với nguyên tắc “chỉ duy Kinh thánh – sola Scriptura”. Kitô giáo bây giờ xuất hiện như một tôn giáo của cuốn sách. Tuy nhiên, trên thực tế–vì đặc điểm riêng của Kinh thánh Kitô giáo, mà chúng ta đã nói trước đây với sự phân biệt giữa Cựu ước và Tân ước, và vì tính chất “tương đối hóa” cố hữu của các bản văn riêng lẻ trong đó, có thể hiểu và truy tìm nguồn gốc trở lại nguồn gốc thiêng liêng chỉ liên quan đến toàn bộ–nguyên tắc của Kinh thánh không được áp dụng một cách tuyệt đối cứng nhắc. Adolf von Harnack đã diễn đạt khái niệm đó bằng những thuật ngữ sau: “Cựu ước chỉ có giá trị tương đối, đứng bên cạnh Tân ước…. Đối với Kinh thánh, việc thờ ngẫu tượng tuyệt đối chữ cái [Grammatolatrie] hoàn toàn không thể xảy ra…. Kinh thánh đã nhận được sự sửa chữa đáng khen ngợi của nó trong thẩm quyền của sự giảng dạy của các sứ đồ, được đặt bên cạnh ‘Kinh thánh’, tổ chức và phân định thẩm quyền của nó. Theo yêu cầu của Erik Peterson để làm rõ thêm về vấn đề này, Harnack trả lời rằng “cái gọi là ‘nguyên tắc chính thức’ của đạo Tin Lành truyền thống là một điều không thể thực hiện được.”[17] Tuy nhiên, người ta đánh giá cụ thể công thức này của nhà thần học Tin lành vĩ đại, vẫn rõ ràng là ngay cả trong quan niệm Tin lành, Kinh thánh theo nghĩa đen đơn giản là không đứng vững trên đôi chân của chính nó.
Bất cứ ai xem xét những khác biệt về cấu trúc này sẽ cảnh giác với những sự so sánh vội vàng.
Âm nhạc và phụng vụ[18]
Kính thưa quý vị Hồng y Giám mục! Kính thưa quý giáo sư và quý vị thân mến,
Tại thời điểm này, tôi chỉ có thể bày tỏ lời cám ơn chân thành nhất vì vinh dự mà quý vị đã dành cho tôi khi trao cho tôi bằng tiến sĩ danh dự [doctoratus honoris causa]. Tôi cám ơn Đức Hồng y Stanislaw đáng mến, là vị Chưởng ấn cao cả, và ban giảng huấn của cả hai trường đại học. Tôi đặc biệt vui mừng vì bằng cách này, mối liên hệ của tôi với Ba Lan, với Kraków, quê hương của thánh Gioan Phaolô II vĩ đại của chúng ta đã trở nên sâu sắc hơn. Bởi vì nếu không có ngài, hành trình tâm linh và thần học của tôi thậm chí không thể tưởng tượng được. Với tấm gương sống động của ngài, thánh Gioan Phaolô II cũng cho chúng ta thấy niềm vui của thánh nhạc vĩ đại có thể đi đôi với bổn phận cùng nhau tham dự Phụng vụ thánh, niềm vui long trọng với sự đơn sơ của một việc cử hành đức tin khiêm nhường.
Trong những năm của thời kỳ hậu Công đồng Vaticanô II, một cuộc xung đột lâu đời về điểm này đã bộc lộ với một niềm say mê được canh tân. Bản thân tôi lớn lên ở vùng Salzburg, nơi được đánh dấu bằng truyền thống vĩ đại của thành phố đó. Một nơi, điều hiển nhiên là các Thánh lễ long trọng có ca đoàn và dàn nhạc đồng hành là một phần không thể thiếu trong kinh nghiệm đức tin của chúng ta trong việc cử hành phụng vụ. Chẳng hạn, nó vẫn in sâu trong ký ức của tôi về việc ngay khi những nốt nhạc đầu tiên của Bộ lễ Đăng quang [Krönungsmesse][19] của Mozart vang lên thì các tầng trời liền mở ra, có thể nói như vậy, và tôi đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa một cách sâu sắc. Tuy nhiên, đã hiện diện cùng với điều này, cũng là thực tế mới của phong trào phụng vụ, đặc biệt là qua một trong những tuyên úy của chúng tôi, người sau này trở thành phó Giám đốc, và sau đó, là Giám đốc của Đại Chủng viện ở Freising. Sau đó, trong thời gian học ở Munich, một cách rất cụ thể, càng ngày tôi đi sâu vào tinh thần của phong trào phụng vụ qua các bài giảng của Giáo sư Joseph Pascher, một trong những chuyên viên quan trọng nhất của Công đồng về các vấn đề phụng vụ, và nhất là qua đời sống phụng vụ trong cộng đoàn ở Chủng viện. Do đó, dần dần, sự căng thẳng trở nên rõ ràng giữa sự tham gia tích cực [participatio actuosa] vào nghi thức phụng, vụ do Công đồng Vaticanô II đề xuất, và âm nhạc trang trọng bao quanh hành động thiêng liêng, mặc dù tôi chưa cảm nhận được điều đó một cách mạnh mẽ.
Công đồng Vaticanô II đã viết rất rõ ràng trong Hiến chế về phụng vụ: “Phải tận tâm gìn giữ và phát huy kho tàng thánh nhạc.”[20] Mặt khác, bản văn nhấn mạnh rằng sự tham gia của tất cả các tín hữu vào hành động thánh là một phạm trù phụng vụ cơ bản. Trong hiến pháp, hai mệnh lệnh này vẫn sát cánh bên nhau một cách hòa bình, nối tiếp nhau; trong buổi tiếp tân của hội đồng, họ thường có mối quan hệ căng thẳng kịch tính. Các giới có ảnh hưởng của phong trào phụng vụ khẳng định rằng trong tương lai sẽ có chỗ cho các tác phẩm hợp xướng lớn và chắc chắn là chỉ dành cho dàn nhạc dàn dựng Thánh lễ trong phòng hòa nhạc, không phải trong phụng vụ. Ở đây có thể có một nơi chỉ để hát và cầu nguyện chung cho các tín hữu. Mặt khác, có sự thất vọng về tình trạng nghèo nàn về văn hóa của Giáo hội nhất thiết phải xảy ra sau đó. Làm thế nào hai điều có thể được dung hòa? Làm thế nào hội đồng có thể được thực hiện toàn bộ? Đây là những câu hỏi mà tôi và nhiều người Công giáo khác phải đối mặt, những người bình thường không kém gì những người được đào tạo thần học.
Tại thời điểm này, có lẽ công bằng khi đặt câu hỏi cơ bản: Thực tế, âm nhạc là gì? Nó đến từ đâu, và nó hướng tới điều gì?
Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể xác định ba “địa điểm” mà từ đó âm nhạc bắt nguồn.
Một nguồn đầu tiên của nó là kinh nghiệm của tình yêu. Khi con người bị chiếm đoạt bởi tình yêu, thì một chiều kích khác của hữu thể đã mở ra cho anh ta, một sự vĩ đại và bề rộng mới của thực tại. Và nó cũng thúc đẩy anh ấy thể hiện bản thân theo một cách mới. Thơ ca, ca khúc và âm nhạc nói chung được sinh ra từ hiện tượng này, từ việc mở ra một chiều kích mới của cuộc sống.
Nguồn gốc thứ hai của âm nhạc là trải nghiệm về nỗi buồn, sự xúc động trước cái chết, nỗi buồn và những khoảnh khắc khó khăn trong sự tồn tại của con người. Trong trường hợp này cũng vậy, những chiều kích mới của hiện thực được mở ra, theo hướng ngược lại, không còn có thể tìm thấy câu trả lời chỉ bằng lời nói.
Cuối cùng, nguồn gốc thứ ba của âm nhạc là cuộc gặp gỡ với thần thánh, mà ngay từ đầu đã là một phần của những gì định nghĩa con người. Thậm chí còn hơn thế nữa, đây là nơi mà Đấng Hoàn toàn Khác hiện diện: Đấng Hoàn toàn Vĩ đại khơi dậy trong con người những cách thức mới để thể hiện bản thân. Có lẽ có thể nói rằng trong thực tế, trong hai lĩnh vực còn lại–tình yêu và cái chết–người chạm đến chúng ta là mầu nhiệm thiêng liêng, và theo nghĩa này, được Chúa chạm đến là điều tạo nên nguồn gốc của âm nhạc nói chung. . Tôi thấy thật cảm động khi quan sát làm thế nào, chẳng hạn như trong Thi thiên, thậm chí không còn bài hát nào là đủ cho con người nữa, và tất cả các nhạc cụ đều được kêu gọi. Âm nhạc ẩn giấu của sự sáng tạo được đánh thức lại, ngôn ngữ bí ẩn của nó. Với Thánh Vịnh, trong đó cũng có hình bóng của hai motif tình yêu và cái chết, chúng ta thấy mình đã đi đúng vào cội nguồn của âm nhạc Hội Thánh của Thiên Chúa. Người ta có thể nói rằng phẩm chất của âm nhạc tùy thuộc vào sự thuần khiết và cao cả của cuộc gặp gỡ với thần linh, với kinh nghiệm về tình yêu và nỗi buồn. Trải nghiệm đó càng trong sáng và chân thực thì âm nhạc được sinh ra và phát triển từ nó cũng sẽ càng thuần khiết và vĩ đại hơn.
Tại thời điểm này, tôi muốn bày tỏ một suy nghĩ mà trong thời gian gần đây ngày càng chiếm lĩnh tôi, khi các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau ngày càng có mối quan hệ với nhau nhiều hơn. Trong phạm vi của các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau, nền văn học vĩ đại hiện diện cùng với kiến trúc vĩ đại, hội họa vĩ đại và tác phẩm điêu khắc vĩ đại. Và ở đâu cũng có âm nhạc. Và, tuy nhiên, không có một lĩnh vực văn hóa nào khác có âm nhạc vĩ đại ngang bằng với âm nhạc được sinh ra trong lĩnh vực đức tin Kitô: từ Palestrina đến Bach, đến Handel, cho đến Mozart, Beethoven và Bruckner. Âm nhạc phương Tây là một cái gì đó độc đáo, không có gì sánh bằng trong các nền văn hóa khác. Điều này sẽ khiến chúng ta phải suy nghĩ.
Chắc chắn, âm nhạc phương Tây vượt xa phạm vi tôn giáo và Giáo hội. Và, tuy nhiên, nó tìm thấy nguồn gốc sâu xa nhất của nó trong phụng vụ, trong cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Ở Bach, mục đích cuối cùng của tất cả âm nhạc là vinh quang của Chúa, điều này khá rõ ràng. Sự đáp ứng tuyệt vời và thuần túy của âm nhạc Tây phương được phát triển trong cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, Đấng, trong phụng vụ, hiện diện với chúng ta trong Đức Giêsu Kitô. Âm nhạc đó, đối với tôi, là một bằng chứng về sự thật của Kitô giáo. Khi một phản ứng phát triển theo cách này, thì cuộc gặp gỡ với sự thật đã xảy ra, với Đấng Tạo Hóa thực sự của thế giới. Vì lý do này, thánh nhạc vĩ đại là một thực tại có cấp độ thần học và có ý nghĩa lâu dài đối với đức tin của tất cả các tôn giáo tự xưng theo đấng Kitô, mặc dù nó không nhất thiết phải được trình diễn mọi lúc mọi nơi. Mặt khác, rõ ràng là nó không thể biến mất khỏi phụng vụ và sự hiện diện của nó có thể là một cách hoàn toàn đặc biệt để tham dự vào việc cử hành thánh, vào mầu nhiệm đức tin.
Nếu chúng ta nghĩ về phụng vụ do thánh Gioan Phaolô II cử hành trên mọi lục địa, chúng ta thấy trong biến cố phụng vụ toàn bộ chiều rộng của những khả thể diễn tả đức tin; và chúng ta cũng thấy rằng âm nhạc vĩ đại của truyền thống phương Tây không xa lạ với phụng vụ như thế nào, nhưng được sinh ra và phát triển từ nó và bằng cách này giúp nó lặp đi lặp lại hình thức. Chúng ta không biết tương lai của nền văn hóa và âm nhạc thiêng liêng của chúng ta. Nhưng có một điều rõ ràng: nơi nào thực sự xảy ra cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống, Đấng đến với chúng ta trong Chúa Kitô, thì ở đó cũng nảy sinh và lớn lên một câu trả lời mới mà vẻ đẹp của nó đến từ chính sự thật.
Hoạt động của hai trường đại học đang trao bằng tiến sĩ danh dự này cho tôi là một đóng góp thiết yếu để món quà âm nhạc tuyệt vời đến từ truyền thống đức tin Kitô giáo có thể tồn tại và có thể giúp đảm bảo rằng lực lượng sáng tạo của niềm tin cũng sẽ không bị dập tắt trong tương lai. Vì điều này, tất cả các bạn xin chân thành cám ơn, không chỉ vì vinh dự mà các bạn đã ban cho tôi, mà còn vì tất cả những công việc mà các bạn đang làm để phục vụ vẻ đẹp của đức tin. Xin Chúa chúc lành cho tất cả quý vị.
Thần học phụng vụ[21]
“Đừng lấy gì làm hơn Việc Chúa – Nihil Operi Dei praeponatur” (Tu luật, ch 43,3). Với những lời này, trong Tu luật của mình, thánh Bênêđictô đã thiết lập ưu tiên tuyệt đối của việc Thờ phượng Thiên Chúa trên mọi nhiệm vụ khác của đời sống đan tu. Câu châm ngôn này, ngay cả trong đời sống đan tu, đã không trở nên rõ ràng ngay lập tức, bởi vì đối với các đan sĩ, công việc của họ trong nông nghiệp và học tập cũng là một nhiệm vụ thiết yếu. Cả trong nông nghiệp và cả trong thủ công mỹ nghệ và trong công việc đào tạo chắc chắn có thể có những vấn đề cấp bách về thời gian có vẻ quan trọng hơn phụng vụ. Đối mặt với tất cả những điều này, thánh phụ Biển Đức, khi ấn định ưu tiên cho phụng vụ, đã nhấn mạnh một cách rõ ràng ưu tiên của chính Thiên Chúa trong đời sống của chúng ta: “Tới giờ kinh Thần vụ, vừa nghe hiệu báo, ai nấy phải bỏ ngay những gì đang cầm trong tay và nhanh chân đến dự” (Tu luật, ch 431).
Trong ý thức của con người ngày nay, những gì thuộc về Thiên Chúa, và do đó, phụng vụ không có vẻ cấp bách chút nào. Mỗi điều có thể có tính cấp bách của nó. Nguyên nhân của Chúa dường như không bao giờ khẩn cấp. Giờ đây, có thể lập luận rằng đời sống xuất gia trong bất kỳ trường hợp nào cũng khác với đời sống của đàn ông và phụ nữ trên thế gian, và điều này tất nhiên là đúng. Thế mà sự ưu tiên của Thiên Chúa mà chúng ta đã quên là đúng cho tất cả mọi người. Nếu Thiên Chúa không còn quan trọng nữa, tiêu chuẩn để quyết định điều gì là quan trọng sẽ thay đổi. Khi gạt Thiên Chúa sang một bên, con người tự đặt mình vào những ràng buộc khiến họ trở thành nô lệ của các thế lực vật chất và do đó trái ngược với phẩm giá của họ.
Trong những năm sau Công đồng Vaticanô II, một lần nữa tôi ý thức về ưu tiên của Thiên Chúa và của Phụng vụ thiêng liêng. Sự hiểu lầm về cuộc cải cách phụng vụ lan rộng trong Giáo hội Công giáo đã dẫn đến việc ngày càng đề cao khía cạnh giáo huấn cũng như hoạt động và sự sáng tạo của chính mình. Những việc làm của con người gần như khiến chúng ta quên đi sự hiện diện của Chúa. Trong tình hình như vậy, ngày càng rõ ràng rằng sự tồn tại của Giáo hội phụ thuộc một cách sống động vào việc cử hành phụng vụ đúng đắn và Giáo hội đang gặp nguy hiểm khi quyền tối thượng của Thiên Chúa không còn xuất hiện trong phụng vụ và do đó trong cuộc sống. Lý do sâu xa nhất của cuộc khủng hoảng làm đảo lộn Giáo hội nằm ở chỗ ưu tiên của Thiên Chúa trong phụng vụ bị lu mờ. Tất cả những điều này đã khiến tôi dấn thân vào chủ đề phụng vụ một cách rộng rãi hơn so với trước đây, bởi vì tôi biết rằng việc đổi mới thực sự phụng vụ là điều kiện tiên quyết cơ bản để đổi mới Giáo hội. Các nghiên cứu được thu thập trong tập XI hiện tại của Các tác phẩm được sưu tầm bắt nguồn từ cơ sở xác tín này. Nhưng về cơ bản, ngay cả với tất cả những khác biệt, bản chất của phụng vụ là một và giống nhau ở phương Đông và phương Tây. Và vì vậy tôi hy vọng rằng cuốn sách này cũng có thể giúp các Kitô hữu ở Nga hiểu theo một cách mới và tốt hơn về hồng ân cao cả được ban cho chúng ta trong Phụng vụ thánh.
[1] Nguyên tác tiếng Ý:
CHE COS’È IL CRISTIANESIMO
Quasi un testamento spirituale
Edited by Pierluca Azzaro and Elio Guerriero
© 2023 Mondadori Libri S.p.A., Milan, Italy
Bản tiếng Anh:
WHAT IS CHRISTIANITY?
The Last Writings
Translated by Michael J. Miller
© 2023 by Ignatius Press, San Francisco
Bản tiếng Việt:
KITÔ GIÁO LÀ GÌ?
Tác phẩm cuối cùng, như một di chúc thiêng liêng
Tác giả: Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI
Chuyển ngữ: Giuse Phan Văn Phi, O.Cist.
Bản quyền tiếng Việt © 2023. Giuse Phan Văn Phi, O.Cist., giữ bản quyền dịch và xuất bản cuốn sách “Kitô Giáo Là Gì?” [Che Cos’è Il Cristianesimo? What Is Christianity?] bằng tiếng Việt trên toàn thế giới, theo hợp đồng bản quyền ký kết với nhà xuất bản Mondadori Libri S.p.A., Milan, Italy. All rights reserved.
Việc dịch tác phẩm này được giúp đỡ bởi Trung tâm Văn hóa Đọc sách [Centro per il Libro e la Lettura], thuộc Bộ Văn hóa của Italia. Mọi quyền đã được bảo hộ.
La traduSione di quest’opera è stata finanziata dal Centro per il Libro e la Lettura, parte del Ministero della Cultura italiano. Tutti i diritti riservati.
The translation of this work was funded by the Centro per il Libro e la Lettura, part of the Italian Ministero della Cultura. All rights reserved.
Bìa và phần trình bày dựa trên nguyên bản tiếng Ý, bởi Nadia Morelli.
[2] Benedetto XVI in dialogo con il rabbino Arie Folger, Ebrei e cristiani, a cura di Elio Guerriero, Cinisello Balsamo, San Paolo, 2019.
[3] Robert Sarah con Benedetto XVI – Joseph Ratzinger, Dal profondo del nostro cuore, a cura di Nicolas Diat, Siena, Cantagalli, 2020.
[4] Lettera al sottoscritto in data 13 gennaio 2021.
[5] Prima parte in ordine biografico e ultima in ordine di pubblicazione della trilogia dedicata a Gesù. L’opera venne inizialmente pubblicata da Rizzoli in tre volumi con i seguenti titoli: Gesù di Nazaret. Dal Battesimo alla Trasfigurazione, Milano 2007; Gesù di Nazaret. Dall’ingresso in Gerusalemme fino alla risurrezione, Milano 2011; L’infanzia di Gesù, Milano 2012. Tác phẩm Đức Giêsu thành Nadarét (gồm 3 tập) sau đó đã được xuất bản thành một tập duy nhất trong ấn bản Opera Omnia, Città del Vaticano, LEV, 2013. Tập Opera Omnia, số VI/1 này, khôi phục lại trật tự thời gian của cuộc đời Đức Giêsu, từ thời thơ ấu tới lúc phục sinh.
[6] Kỳ mục, linh mục (Hl presbyter: kỳ lão). Thuật ngữ ám chỉ chức sắc trong Hội đường Do thái, thành viên của Thượng Hội đồng tại Giêrusalem. Trong Tân ước, đây là những người lãnh đạo cộng đoàn Kitô hữu tại Giêrusalem và Antiôkia. Họ là kỳ mục – presbyteroi (Cv 11,30; 14,23), hay giám quản – episkopoi (Pl 1,1; Tt 1,5.7). Theo thánh Inhaxiô Antiokia (k.35-k.107), các kỳ mục (hoặc linh mục) là thành phần dưới quyền của giám quản (hoặc giám mục) và ở trên các phó tế. Ngày nay, thuật ngữ “presbyter” được hiểu là linh mục, người được truyền chức thánh để hiến thánh và hiến dâng Mình và Máu Chúa Kitô trong thánh lễ (x. Giáo luật, điều 1015; GLHTCG, số 1562-1568).
[7] Sứ điệp “Tình yêu thương bắt nguồn từ công việc truyền giáo” đã được đọc nhân dịp khánh thành đại sảnh đường [Aula Magna] đã được tân trang lại của Đại học Giáo hoàng Urbaniana, được đặt theo tên của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, vào ngày 21 tháng 10 năm 2014.
[8] “Tôn giáo là gì?”, trước đây chưa được xuất bản, bản văn được hoàn thành vào ngày 19 tháng 3 năm 2022.
[9] Bản văn “Thuyết Độc thần và sự khoan dung” được hoàn thành vào ngày 29 tháng 12 năm 2018.
Thuật ngữ “Monotheism”: Thuyết Độc thần, Nhất thần luận. Niềm tin chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, là Đấng Tạo thành vũ trụ. Đây là niềm tin sơ khai của mọi Hữu Thần Thuyết, bởi vì nhận biết cách toàn tâm toàn ý sự hiện hữu của một Thiên Chúa có ngôi vị, là Đấng thực sự tách biệt với thế giới do chính Người đã sáng tạo nên. Điều này khác biệt với Nhất Nguyên Thuyết, đồng hóa Thiên Chúa với vũ trụ. Hơn nữa thuyết này còn quả quyết rằng Thiên Chúa siêu việt và hữu ngã là Đấng duy nhất chứ không có nhiều, do đó cũng đối lập với đa thần thuyết và nhị nguyên thuyết (Nguyên ngữ Hy Lạp monos, đơn nhất, chỉ một + theos, thần).
Thuật ngữ “Tolerance”: Bao dung, chịu đựng (Lt tolerantia: nhẫn nại, chịu đựng). Theo nguyên ngữ, từ này mang nghĩa tiêu cực là thái độ chấp nhận miễn cưỡng một điều xấu nhằm tránh một tai họa lớn hơn. Với dòng thời gian, thuật ngữ này biến nghĩa từ thái độ “nhắm mắt làm ngơ” đến việc chấp nhận những quan điểm, tín ngưỡng, lối sống khác với mình. Ngày nay, thuật ngữ được áp dụng cách riêng trong lãnh vực tín ngưỡng, được hiểu như “tự do tín ngưỡng” (religious freedom), tuy không thể nào coi như đồng nghĩa với sự lãnh đạm thờ ơ đối với chân lý (x. GLHTCG, số 2108). “Intolerance”: Bất khoan dung, không tha thứ, không dung dị, cố chấp, hẹp hòi. – ND.
[10] Eckhard Nordhofen, Corpora. Die anarchische Kraft des Monotheismus [Bodies: the anarchic power of monotheism], Freiburg im Breisgau: Herder, 2018; Eckhard Nordhofen, một nhà thần học người Đức, người đã cho rằng, có một mối liên kết giữa việc khẳng định một Thiên Chúa duy nhất và sự bất khoan dung. Đức Bênêđictô XVI bác bỏ lập luận này, đồng thời, ngài than thở rằng, sự kiện Kitô giáo ngày nay chính là “nạn nhân của sự bất khoan dung ngày càng gia tăng nhân danh lòng khoan dung.” Ngài bác bỏ lời buộc tội cho rằng Kitô giáo không khoan dung vì nó tuyên bố nắm giữ sự thật, trái lại, Kitô giáo bảo đảm với chúng ta rằng: “Chúa Kitô chịu đóng đinh chính là đối trọng đích thực đối với mọi hình thức bất khoan dung.” – Người dịch chú thích thêm.
[11] Deutero-Isaiah là tên được đặt trong nghiên cứu về tác giả ẩn danh của Isaia, chương 40–55 và tác phẩm của ông. Tiếng Hy Lạp deuteros (δεύτερος) có nghĩa là “thứ hai” – do đó tên gọi “Isaiah thứ hai” cũng được sử dụng.
[12] Erich Zenger, Einleitung ins Alte Testament, Stuttgart, Kohlhammer, 1996.
[13] Patrologia Graeca 12, 1133 B.
[14] Bản văn “Đối thoại Kitô giáo-Hồi giáo” được hoàn thành vào ngày 1 tháng 3 năm 2018 và trước đó chưa được xuất bản.
[15] Kinh Koran [Qurʾān] là văn bản tôn giáo quan trọng nhất của đạo Hồi. Người Hồi giáo tin đây lời nói mặc khải cuối cùng của Thượng đế, là nguồn gốc căn bản cho đức tin và hành động của mỗi người Hồi giáo và được coi là kiệt tác hoàn hảo nhất trong văn học Ả Rập cổ điển.
[16] x. Giáo lý Giáo hội Công giáo, số 108, và Tông huấn Hậu Thượng hội đồng năm 2008, Verbum Domini.
[17] Adolf von Harnack, “Das Alte Testament in den Paulinischen Briefen und in den Paulinischen Gemeinden”, in Sitzungsberichte der Preussischen Akademie der Wissenschaften (Berlin: Preussischen Akademie der Wissenschaften, 1928), 141; Erik Peterson, Theologische Traktate (Munich: Kösel Verlag, 1951), 295.
[18] Bài phát biểu của Đức Bênêđictô XVI bày tỏ lòng biết ơn đối với việc Đại học Giáo hoàng Gioan Phaolô II ở Kraków và Học viện Âm nhạc Kraków trao bằng tiến sĩ danh dự cho ngài. Castelgandolfo, ngày 4 tháng 7 năm 2015.
[19] Coronation Mass; Krönungsmesse (tiếng Đức nghĩa là Bộ lễ Đăng quang); Bộ lễ số 15 cung C trưởng, K. 317; đôi khi là Bộ lễ số 16, sáng tác năm 1779, là một trong những bản phổ biến nhất trong số 17 bản phối phổ thông còn tồn tại của của Bộ lễ Wolfgang Amadeus Mozart.
[20] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế về Phụng vụ, Sacrosanctum Concilium, số 114.
[21] Lời nói đầu cho ấn bản bằng tiếng Nga của tập XI, Thần học Phụng vụ, Tuyển tập các Tác phẩm của Joseph Ratzinger – Bênêđictô XVI. Bản văn được hoàn thành vào ngày 11 tháng 7 năm 2015, Lễ thánh Biển Đức.