Tác giả: Lm. Divo Barsotti
Dịch giả: Lm. Trầm Phúc
WGPMT (15.01.2023) – Đây là những bài lược dịch từ 21 bài giảng tĩnh tâm cho Giáo triều Rôma của cha Divo Barsotti năm 1971. Lược dịch vì chỉ giữ lại những gì liên can đến chức vụ linh mục mà thôi, vì có nhiều đoạn ngài nói về Giáo Triều. (Dịch giả)
Nhập đề
Chúng ta đã cầu xin Chúa Thánh Thần. Và chúng ta không hồ nghi là Thánh Thần Chúa đã đáp lại lời nguyện của chúng ta: Đây chính là lời cầu nguyện của những nghĩa tử của Chúa, và chúng ta không cầu xin gì hơn là thực thi thánh ý Ngài.
Trước tiên, chúng ta hãy suy nghĩ đến sự trọng đại của hành vi chúng ta vừa thực hiện, đến hành vi chúng ta vẫn còn thực hiện ngay lúc nầy. Thiên Chúa hiện diện nơi đây. Trước uy nhan Thiên Chúa, sự cao cả của con người biến tan. Và chính vì lý do đó mà tôi dám ngỏ lời với quí Cha.
Tất cả chúng ta là gì trước mặt Chúa, và tại sao tôi cảm thấy tê liệt trước mặt quí Cha? Tất cả chúng ta đây, chúng ta là gì chăng nữa, trước mặt Ngài, chúng ta chỉ là những tôi tớ hèn mọn nhưng cũng là những đứa con yêu quí của Ngài.
Chúng ta đã cầu xin ơn Thánh Thần để dọn mình đi vào linh thao. Nhưng đối với chúng ta, linh thao nầy là gì? Trong giáo thuyết của thánh I-nhã, chính sự TUYỂN CHỌN là mục đích của linh thao.
Chúa đang hiện diện nơi đây. Trước uy nhan Chúa, mọi danh giá của loài người biến tan. Chúng ta là gì trước mặt Chúa?
Nhờ lòng thương xót Chúa, chúng ta được kêu gọi làm tôi tớ của Ngài… và hơn nữa, chúng ta là những đứa con được yêu thương. Vậy chúng ta phải làm gì?
Chúng ta hãy nhìn ngắm uy nhan tuyệt vời của Tình Yêu đã tuyển chọn chúng ta và muốn chúng ta phục vụ Ngài.
Chúng ta hãy sống trước uy nhan Chúa. Chúng ta không là gì cả, nhưng hãy sống thánh thiện trước mặt Ngài, hãy để cho Chúa hoàn toàn tự do quyết định về ta, đừng bao giờ trở nên chướng ngại cho Ngài, những ước muốn lành thánh của chúng ta cũng có thể là chướng ngại cho Ngài. Chính Ngài mới biến chúng ta thành thánh và Ngài đòi hỏi chúng ta để cho Ngài hoạt động. Chúng ta hãy hoàn toàn tự do, sẵn sàng đón nhận ân huệ của Ngài. Và ân huệ của Ngài trước tiên là hồng ân của một hiện diện.
Sự sống trong ơn thánh và sự sống vinh quang, đức tin và sự chiêm ngưỡng không khác nhau bao nhiêu – nhưng tiếp nối nhau. Những việc thiêng liêng chúng ta làm là một cách sống trước ở thiên đàng.
Sự chết luôn gần kề chúng ta. Cầu xin Chúa hiện diện trong lòng ta và cho chúng ta cảm thấy được phần nào sự hiện diện yêu thương của Ngài và ban cho chúng ta niềm vui được thuộc trọn về Ngài. Xin Chúa cho chúng ta hiểu rằng, không có gì cao cả hơn, ở đời nầy, bằng việc được Ngài tuyển chọn.
Sống trước uy nhan Chúa là gì?
Con người đâu bao giờ thấy Chúa, vậy phải hiểu như thế nào? Ngôn ngữ của loài người che khuất Chúa hơn là tỏ hiện Ngài. Chúa vượt xa mọi ngôn ngữ, mọi quan niệm của con người. Khi chúng ta diễn tả kinh nghiệm của chúng ta về ơn Ngài, chúng ta có thể nào thực sự xác quyết rằng chúng ta đã nghe, đã thấy, hay chạm đến Chúa không? Có phải Thiên Chúa vượt xa mọi cảm giác của con người, mọi hình ảnh hay quan niệm mà người ta có thể có về Ngài?
Đây mới là đức tin. Đức tin của chúng ta đòi buộc những dấu hiệu, nhưng phải vượt qua những dấu hiệu, nếu không, tất cả chỉ là ảo tưởng. Tất cả việc thi hành các nhân đức và kinh nghiệm thần bí, những khám phá thần học, tu đức, thần bí đều là ảo tưởng. Đừng dừng lại nơi tiếng nói của loài người, những hãy nhờ tiếng nói loài người để lắng nghe một tiếng nói khác, tiếng nói của chính Chúa nói vào tâm hồn chúng ta, đem chúng ta vào huyền nhiệm của sự hiện diện thần linh.
Hãy sống tin, cậy, mến, những nhân đức đối thần thiết yếu nhờ đó, chúng ta được đi đến với Chúa.
Tất cả đều phải biến tan trước uy nhan Chúa. Sự hiện diện của Chúa nơi đây, đối với chúng ta, phải là cảnh sống thiên đàng được nếm trước ở trần gian nầy. Nếu đời sống hiện tại trong trần thế không là một thứ thiên đàng được nếm trước, thì không thể nói là đời sống đạo đức vì đức tin là ngưỡng cửa của việc chiêm ngưỡng hồng phúc thiên đàng – và đức ái lại nhắc chúng ta lên đến Chúa ngay từ bây giờ và trao chúng ta cho Ngài.
Nỗ lực duy nhất của chúng ta là sống hiện diện với Chúa như Chúa đã hiện diện với ta.
Chúng ta hãy để cho tâm hồn chúng ta thênh thang bỏ ngỏ, để Chúa lấp đầy bằng sự hiện diện của Ngài, và sự hiện diện của Ngài sẽ mở rộng tâm hồn chúng ta đối với anh em nhân loại.
Không thể có cách nào khác: Sự hiện diện của Thiên Chúa chính là sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô, và Ngài chính là Con Đức Chúa Cha, và chính Ngài đã bao gồm tất cả nhân loại trong Ngài.
Sự hiện diện của Chúa không phải chỉ là một sự thân mật mà thôi. Ngài đã tuyển chọn chúng ta và Ngài hiện diện trong chính bản thân chúng ta. Ngài lắp đầy những khoảng trống của tâm hồn chúng ta: Ngài muốn là nội dung của chính đời sống chúng ta, là ý nghĩa và là đường hướng của cuộc sống chúng ta. Hơn thế nữa, chúng ta được gọi để nên sự hiện diện của Ngài trong trần gian, nên nhiệm tích của sự hiện diện Ngài.
Nếu chúng ta phải sống trong sự hiện diện đó của Chúa, chúng ta cần phải ý thức những gì Ngài đòi buộc và thực hiện trong chúng ta; không những gì Ngài đã hứa mà cả những gì Ngài đã thực hiện trong đời sống chúng ta: như thế, chúng ta phải luôn dâng lên Ngài là Đấng đã kêu gọi và đã tuyển chọn chúng ta, những lời tạ ơn nồng nhiệt và những lời ca ngợi liên lỉ.
Và như thế, việc chiêm ngưỡng Chúa không khác biệt sự nhận thức sâu xa về hoạt động của Chúa trong đời sống chúng ta, về những gì Ngài thực hiện và muốn thực hiện nhờ chúng ta là những linh mục của Ngài.
Nhìn thấy Chúa, nghe lời Chúa rốt cùng chỉ là tìm hiểu chính mình chúng ta hơn và làm sống lại ân huệ, một ngày kia, đã biến chúng ta thành tôi tớ của dân Chúa, linh mục của Chúa Kitô.
01. Đức tin – Nguồn cội và nền tảng
Chúng ta hãy tiếp tục suy niệm về chức tư tế.
Ơn gọi của Chúa được quy hướng về một sứ mệnh. Chúa Kitô đã tuyển chọn chúng ta không phải để tách rời chúng ta ra khỏi thế giới, nhưng để càng ngày càng nên một với Ngài, chúng ta có thể sống chính sứ mệnh của Ngài.
Nhưng sứ mệnh của Ngài là gì?
Những văn kiện của Công Đồng Vatican II, vì là một Công Đồng mục vụ, không giải thích điều đó mà trái lại, đã xem điều ấy như đã biết rồi. Thánh Tôma Aquinô cho rằng thần học về việc sai đi là một điều tối quan trọng trong tác phẩm thần học của ngài là Tổng luận thần học.
Theo ngài, sứ mệnh được sai đi, là nhiệm xuất của những Ngôi Vị Thiên Chúa được nối tiếp và kéo dài: Thiên Chúa, vốn là Đấng không ai thấu đạt và siêu việt, trở nên Thiên Chúa cho chúng ta: một Thiên Chúa tự mạc khải và thông truyền chính mình cho thế giới. Thiên Chúa đã từ bỏ sự thâm sâu vô tận của Ngài, hay đúng hơn, nhờ những nhiệm xuất của các Ngôi Vị thần linh, Ngài đã kéo mọi tạo vật vào vực thẳm của sự thân mật của Ngài. Và chính nhờ việc sai Chúa Con đi mà Chúa tự mạc khải và thông truyền chính mình cho thế giới.
Đối lại, con người phải làm gì trước những hồng ân tuyệt hảo ấy, phải chăng là dâng hiến tất cả cho Chúa? Hành động tối hậu của chương trình cứu rỗi phải chăng là sự toàn hiến tuyệt hảo của Chúa Con cho Chúa Cha, sự toàn hiến nầy kiện toàn tất cả trong vĩnh cửu. Làm sao sự hiến dâng ấy không là hành động tối hậu của các linh mục hôm nay trong trần thế? Hành động nầy diễn tả rõ rệt hơn hết sự cao cả và ích lợi của nó.
Khi chúng ta thực hiện huyền nhiệm Thánh Thể, chúng ta bao gồm tất cả sự sống của Giáo Hội trong hành động tối hậu ấy. Cuộc sống thiên quốc cũng không thêm gì vào hành động dâng hiến của Chúa Kitô, tế hiến mình cho Chúa Cha và như thế, tế hiến cả vũ trụ hiệp nhất trong Ngài.
Đúng thế, trên thiên đàng, chúng ta cũng không làm gì hơn. Nhưng ở trần gian nầy, hoạt động cao cả ấy, chúng ta phải thực hiện trong huyền nhiệm. Đức Hồng Y H. Newman nói: “Cứu cánh là đồng bạn của đường đi”, nhưng, khác với Giáo Hội thiên quốc, Giáo Hội trần gian đang còn là lữ khách. Và vì thế, trên trần gian nầy, hoạt động mục vụ là tiên quyết, mặc dù hoạt động cao cả nhất vẫn luôn thuộc phẩm cách hoàn toàn tư tế.
Các văn kiện Công Đồng không nói đến chức vụ tư tế của Chúa Kitô, là một thiếu sót. Chức vụ tư tế của Chúa Kitô độc nhất và vĩnh cửu vì được đặt trên huyền nhiệm nhập thể của Ngài như nền tảng. Chức vụ tư tế của giáo dân và chức vụ tư tế thừa tác của chúng ta chỉ là một sự thông công vào chức vụ tư tế độc nhất của Chúa Kitô mà thôi. Quả vậy, chỉ vì thông công vào chức vụ tư tế của Chúa Kitô, mà chức vụ tư tế của giáo dân không bị nguy cơ tan biến thành một chức vụ hoàn toàn có tính cách xã hội và Giáo Hội cũng không thể tan rã trong thế giới. Về chức tư tế thừa tác, chính vì nó hiện tại hóa trong thế giới, hy lễ của Chúa Kitô-Thủ lãnh, nên nó không bị điều kiện hóa bởi những hoàn cảnh lịch sử và xã hội…
Chúng ta biết rằng cự tuyển chọn của Chúa đưa chúng ta vào thế giới của Thiên Chúa và cho chúng ta sống hiệp thông với Chúa Kitô, cho chúng ta hiểu biết Chúa Cha. “Sự sống đời đời, chính là chúng biết Cha là Thiên Chúa đích thực, duy nhất, và Đấng Cha sai đến: Đức Giêsu Kitô” (Ga 17,3).
Sự hiểu biết ấy bắt đầu ngay từ trần gian nầy. Sự sống vinh quang nối tiếp sự sống ân sủng. Sự hiểu biết Chúa trên thiên quốc mai sau sẽ hoàn hảo hơn sự hiểu biết hiện nay, nhưng sự hiểu biết nầy, dù hèn kém thế nào chăng nữa, vẫn đòi hỏi một sự thông hiệp đích thực với Chúa, và đem chúng ta vào huyền nhiệm của Ngài. Chúa Giêsu đã quả quyết trong Tin Mừng Gioan rằng: sự tuyển chọn của Chúa vẫn nối liền với sự hiểu biết nầy. Trước khi nói: “Không phải anh em chọn Thầy, mà chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15,16) Ngài đã tuyên bố: “Tất cả những gì Thầy học biết nơi Cha Thầy, Thầy đều cho anh em biết” (Ga 15,15). Sự tuyển chọn của Chúa được nối kết mật thiết và bền chặt với sự hiểu biết Chúa Kitô sâu xa, thân mật và thực nghiệm. Và chính điều nầy làm cho chúng ta nên người tuyển chọn của Chúa.
Nếu ơn gọi của chúng ta biến đổi chúng ta nên nhiệm tích của sự hiện diện thần linh, sự hiện diện ấy không còn ở ngoài chúng ta nữa, mà là kết quả và là biểu thị của một sự hiểu biết đòi hỏi chiếm hữu Thiên Chúa, Đấng đã trao ban chính mình cho chúng ta.
Chúng ta phải biết Ngài, như các môn đệ đã hiểu biết Ngài. Trước khi Chúa Kitô sống trong tâm hồn họ, họ đã sống với Ngài, đã đăng trình với Ngài trên mọi nẻo đường, họ đã chia sẻ nếp sống của Ngài và nhờ đó, họ học biết Ngài.
Và chính sự hiểu biết ấy đã biến đổi họ, và đem Chúa vào thân mật của quả tim con người. Trong sự sống đức tin, chúng ta không “ở trước mặt” Chúa nữa. Chúa tự nộp mình cho chúng ta và để cho chúng ta chiếm hữu Ngài. Nếu không như thế thì con người không thể hiểu biết Thiên Chúa một cách thực sự được và chỉ có một quan niệm mơ hồ về Chúa mà thôi, và như thế, Ngài bị thu gọn vào những phạm trù của con người. Như vậy không phải Thiên Chúa biến đổi con người thành Chúa, mà Chúa bị thu hẹp vào kích thước nhỏ bé của con người. Không, không thể như thế được, vì Thiên Chúa không thể bị thu gọn lại, vì trong những điều kiện ấy, không còn gì là tri thức nữa. Một ý niệm thông thường thay thế cho Thiên Chúa hằng sống và tri thức sẽ chỉ là thờ quấy mà thôi. Tri thức đích thực về Chúa chỉ có thể là một tri thức đồng hóa chứ không là một tri thức biến Thiên Chúa thành người, nhưng là một tri thức biến con người thành Thiên Chúa. Đối với con người, chiếm hữu Thiên Chúa tức là được Thiên Chúa chiếm hữu vậy.
Và chính như thế mà chúng ta, nhờ đời sống đức tin, sẽ trở nên nhiệm tích của sự hiện diện của Thiên Chúa. “Hãy đến gần Chúa thì bạn sẽ được rọi sáng”. Những gì Chúa Kitô tuyên bố về chính mình, Ngài áp dụng cho các môn đệ. Ngài là ánh sáng thế gian; các môn đệ, sống với Ngài, cũng sẽ trở nên ánh sáng thế gian như thế. Bây giờ, trong ánh vinh quang của Phục Sinh, Ngài đã trở nên vô hình. Ngài tự tỏ mình ra qua những kẻ Ngài tuyển chọn, những nhân chứng của Ngài. Và với cách thức ấy, Ngài tiếp tục công trình của Ngài, Ngài tiếp tục mạc khải Chúa Cha.
Không có mạc khải nào ngoài Chúa Kitô. Khi Chúa Cha ban Chúa Kitô cho chúng ta, Ngài không ban cho chúng ta mọi sự nơi Người hay sao? Và khi Ngài tự mạc khải qua Đức Kitô, Ngôi Lời của Ngài, Ngài đã chẳng tỏ hiện tất cả huyền nhiệm của Ngài hay sao? Không ai có thể đi xa hơn nữa, ngoài Chúa Kitô, không có con đường nào khác.
Nhưng nếu việc mạc khải đã chấm dứt rồi, nghĩa là chúng ta không thể nghĩ đến một cách mạc khải nào khác nữa, mỗi người chúng ta phải đặt mình trước mạc khải đó. Nếu Chúa không còn mạc khải nữa, thì con người không thế biết Chúa nữa. Nơi đây, chính là lúc đức tin bắt đầu hoạt động để thay thế sự nghèo nàn của ngôn ngữ và của ý niệm trong việc chuyển thông tri thức về Chúa. Lịch sử của việc mặc khải đã chấm dứt, nhưng sự kiện mạc khải vẫn còn. Cũng như tạo thành vẫn là một dấu hiệu của sự hiện diện của Chúa – vì tạo thành là việc mạc khải đầu tiên mà Chúa tỏ mình ra như bức thư Rôma đã nói – thì Chúa Kitô cũng hiện diện với chúng ta, những Kitô-hữu như thế.
Tôi phải thấy Chúa, tôi không thể không nhìn thấy Ngài. Tôi phải nghe lời Ngài, tôi không thể không nghe lời Ngài được. Tôi phải được Ngài chạm đến, chiếm hữu. Kinh nghiệm của các Tông đồ xưa kia trở nên sống động trong chính kinh nghiệm của chúng ta về Chúa. Chúa Kitô đã trở nên hữu hình cho chúng ta. Ngài hành động nhờ chính bản tính nhân loại bần hèn của ta. Có lẽ chúng ta đừng nên xem ấn tính của phép truyền chức là một dấu hiệu sẽ tồn tại muôn đời: đứng trước vị tư tế duy nhất và vĩnh cửu, chức tư tế của chúng ta sẽ không còn nữa; phải công nhận rằng ấn tính của phép truyền chức là một cách Ngôi Lời chiếm hữu bản tính nhân loại của chúng ta và ngày nay. Ngài sử dụng nó như khi xưa Ngài đã sử dụng bản tính nhân loại mà Ngài đã nhận từ cung lòng Trinh Nữ Maria, mẹ Ngài, để thực hiện việc cứu rỗi chúng ta và thông truyền chân lý cho nhân loại.
Đó chính là bản tính nhân loại, nhờ đó, Ngài trở nên hữu hình và tiếp tục huyền nhiệm của Ngài. Không phải Ngài tiếp tục là vì đã bỏ dở công việc của Ngài, nhưng để hiện diện và trở nên hữu hình cho thế giới. Chúng ta phải là dấu hiệu và là nhiệm tích của sự hiện diện của Chúa. Đúng thế, nếu đó là nhiệm vụ của chúng ta với tư cách là Kitô-hữu, và hơn nữa, là linh mục, thì công việc đầu tiên chúng ta phải làm là sống trước uy nhan Chúa.
Chúng ta chỉ có thể là “ánh sáng” khi chúng ta được soi chiếu bởi Ánh Sáng vĩnh cửu mà thôi. Chính khi chúng ta đứng trong ánh sáng mặt trời, chúng ta mới được rọi sáng cho kẻ khác. Ánh sáng của chúng ta, cũng như ánh sáng của Giáo Hội, là như ánh sáng của mặt trăng: đó là một hình ảnh, được các giáo phụ nhắc đi nhắc lại. Mặt trăng chỉ như một bức gương soi, phản chiếu ánh sáng mặt trời mà thôi, và nó soi sáng đêm tối của trần gian. Ánh sáng của chúng ta cũng chỉ là ánh sáng phản chiếu: Chúa Kitô phản chiếu nơi chúng ta để trở nên hữu hình cho thế giới; muốn như thế, chúng ta phải sống trước uy nhan Ngài. Cái gì phân biệt chúng ta trong hạng sinh vật? Chính là do cái nhìn của chúng ta về sự vật. Và cái gì phân biệt chúng ta với tính cách con người? Ánh sáng của lý trí: là Kitô-hữu, là linh mục, cái gì phân biệt chúng ta? Đức tin.
Làm người, nghĩa là sống theo lý trí; làm người Kitô-hữu là sống nhờ đức tin. Sống đức tin là thở một bầu không khí mới, là sống trong một thế giới mới, thế giới của Thiên Chúa. Chắc chắn là tôi vẫn còn sống trong thế giới vật chất, nhưng thế giới nầy không thể giam hãm tôi như một ngục tù, nó không cắt đứt tôi khỏi Thiên Chúa được. Mỗi tạo vật trở thành dấu hiệu, mỗi biến cố trở thành sứ điệp; thực vậy, mọi vật đều dẫn tôi vào thế giới của Chúa. Điều làm cho đời sống tinh thần của tôi trở nên đặc sắc, là chính sự kiện tôi sống với Chúa bằng những liên hệ thực tiễn rõ ràng. Đối với một Kitô-hữu, những tạo vật, những biến cố ở trần gian chỉ là ngưỡng cửa đưa họ vào huyền nhiệm của Chúa mà thôi. Nhưng cánh cửa đích thực là Chúa Kitô. Tất cả các tạo vật là dấu hiệu của Chúa nhưng chúng chỉ loan báo huyền nhiệm từ xa thôi. Chỉ ở trong Chúa Kitô, con người mới đi sâu vào huyền nhiệm của Thiên Chúa mà thôi.
Đời sống đức tin là cả một cái gì cao cả! Và chúng ta phải biết thở cái không khí bao la của Thiên Chúa, dù chúng ta đang ở trong nơi chật hẹp nầy, chúng ta phải biết thở bầu không khí vĩnh cửu của Chúa trong khoảnh khắc đang trôi qua và như muốn cuốn hút chúng ta về với nó.
Sống trước uy nhan Thiên Chúa! Và sự hiện diện của Chúa là Đức Kitô, Chúa chúng ta. Việc mạc khải tối hậu trước khi mạc khải vinh quang thiên quốc là khuôn mặt của Chúa Kitô: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”.
Từ cuộc sống tự nhiên, con người bước sang cuộc sống siêu nhiên như thế nầy là: con người không sống một liên hệ nào đó với sự vật mà thôi, mà xuyên qua sự vật, liên hệ với một người khác. Trong đời sống siêu nhiên, con người không là tù nhân của thế giới vật chất. Trong mối liên hệ với Đức Kitô, con người thở lấy sự tự do của cuộc sống thần linh. Sự thực tiễn của thế giới mới mà đức tin mang lại cho chúng ta là sự thông hiệp trong tình yêu. Mối liên hệ của chúng ta với Chúa Kitô, được kết thúc trong chính Ngôi Vị thần linh của Ngôi Lời, trong một Thiên Chúa có bản vị, Đấng đã yêu thương chúng ta trước.
Làm chứng cho Đức Kitô có ý nghĩa gì với chúng ta? Và làm sao chúng ta có thể là những nhân chứng của Ngài? Dù vậy, đó chính là điều Ngài đòi hỏi chúng ta trước hết. Chính Ngài đã nói với các môn đệ trước khi lên trời và trở về trong sự vô hình của Ngài: “[…] Anh em hãy là nhân chứng cho Thầy” (Cvtđ 1,8). Nhưng làm sao làm nhân chứng cho Ngài được khi chúng ta không biết, cũng không thấy Ngài? Như thế, chúng ta tự đắc biết bao khi chúng ta chấp nhận là được sai đến với anh em chúng ta đang sống trong bóng tối sự chết và họ không biết Chúa!
Cái nhìn của người Kitô-hữu, của một nhân chứng của Chúa Kitô, thực lạ lùng! Trong một thế giới như thế giới hôm nay, một thế giới mù tối và chìm sâu trong một cuộc sống không ánh sáng và không niềm tin, vì vắng Chúa, chỉ có nhân chứng của Đức Kitô có thể dẫn đường vào sự sống, vào tự do, bằng cách loan báo rằng Thiên Chúa yêu thương loài người, và, trong muôn vàn thế giới bao la, Thiên Chúa đã tuyển chọn họ và đã muốn đem họ về với Ngài. Người ấy biết rằng Giáo Hội không là kết quả của một nền văn minh nào đó, mà là nhiệm tích của Thiên Chúa hằng sống, là cộng đoàn những kẻ được cứu thoát. Chắc chắn chúng ta thấy được những gì người khác không thấy, bước vào một thế giới mà người khác không thể biết. Chúng ta sống một nếp sống cao đẹp hơn, trong sáng hơn, sáng sủa hơn những người không niềm tin. Chúng ta cũng là người như mọi người, dù vậy, giữa chúng ta là những kẻ tin và những kẻ không tin như có một vực thẳm vô biên. Theo thánh Phaolô, tin là một tạo thành mới. Sứ điệp có đáng tin hay không, là do người mang sứ điệp. Và chứng tá có đích thực và được người đời công nhận như thế hay không là do người loan báo có thấy, có biết rõ những gì mình loan báo hay không.
Chúng ta phải là những nhân chứng, và để thành nhân chứng, chúng ta phải thấy đã. Chúng ta hãy mở mắt đức tin chúng ta ra, nhờ đó, mọi tạo vật trở nên trong suốt trước huyền nhiệm và tất cả trở nên dấu hiệu của một Hiện Diện. Những biến cố của cuộc sống sẽ chuyển đạt cho chúng ta sứ điệp của tình yêu Thiên Chúa, và chúng ta sẽ không cảm thấy bị giam hãm trong tù ngục của một thế giới mù tối và điếc lác trước nỗ lực của chúng ta nữa. Chúng ta thắng được nỗi cô đơn của chúng ta và chúng ta sống trong sự hiệp thông của tình yêu.
Việc “cứu rỗi” được đồng hóa với việc giải phóng con người và cả với sự tự do của con người nữa. Con người không niềm tin là nô lệ và cô đơn, với đức tin họ được tự do và được yêu thương. Họ không cảm thấy bị thời gian nghiền nuốt họ nữa, cũng không bị tù hãm trong thế giới vật chất nữa; họ không còn bị điều kiện hóa bởi một cái gì nữa cả; họ thở chính sự tự do của Thiên Chúa.
Chúng ta không thể tự hào là những nhân chứng đích thực của Chúa Kitô, nếu chúng ta không biết Ngài, không sống với Ngài, nếu chúng ta không sống đời sống đức tin làm cho chúng ta vững lòng, đang lúc mọi sự đều đổ nát, và chúng ta đang sống trong một thế giới tự do và bình an; không phải để chúng ta trở nên khác lạ với người khác, chiếm hữu một thiện hảo mà người khác không có, nhưng là để chúng ta cảm thấy bị ràng buộc phải dấn thân truyền đạt tự do và bình an ấy cho những kẻ mà sự chết đang đe dọa. Làm sao người ta tin được sứ điệp của chúng ta nếu chính chúng ta không cảm thấy bị liên hệ gì với mọi người khác trong cùng một cảnh huống điêu tàn và chết chóc? Và thân phận con người hôm nay là thế đấy.
Trong tiểu thuyết nổi tiếng của văn hào Nga Dostoievski: “những kẻ bị quỷ ám”, Kirilov, một nhân vật trong đó, cho rằng con người đã tìm cách chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa là để khỏi bị dồn ép phải quyên sinh. Rốt cùng, sự mất đức tin, chắc chắn, không là sự chết của Thiên Chúa mà là sự chết của con người. Khi loại Chúa ra khỏi cuộc sống mình, con người mất đi chính bản thể đích thực của mình. Lý trí của họ chỉ biến họ thành một thành phần hay là một nô lệ của cả một guồng máy khổng lồ mà họ không thể tìm thấy ý nghĩa. Sự tự do của họ trở nên trò hề giả dối, mặt nạ của bản năng mù lòa. Con người nào không là hình ảnh Thiên Chúa, không còn là con người nữa. Con người hôm nay không còn biết tại sao và vì ai họ sống. Họ không thể chấp nhận thân phận của họ nữa. Không có Chúa, cuộc sống không thể sống nổi. Người ta nói rằng thế giới nầy đã trưởng thành, nó không cần đến Chúa nữa. Thật là một điều quả quyết đáng sợ! Tự cho là không cần Thiên Chúa, phải chăng là bất hạnh? Trong một thế giới mà con người không còn thấy Chúa nữa, thì không khác gì hỏa ngục. Tôi không hiểu họ muốn nói gì khi nói rằng con người hôm nay trưởng thành rồi, không cần đến Thiên Chúa nữa. Đúng thế, người ta có thể không cần đến một thứ Thiên Chúa từ máy móc, nhưng đó không phải là Thiên Chúa đích thực. Còn tôi, thà bị Chúa phạt hay đè nặng trên tôi tất cả sự công thẳng của Ngài thì tốt hơn là không cần đến Thiên Chúa hằng sống. Thà bị phép công thẳng Chúa trừng trị hơn là hoàn toàn không biết Ngài.
Hỏa ngục chính là đó: là không biết đến Thiên Chúa nữa, sống sự vắng mặt của Chúa. Thân phận của những người khốn nạn trong hỏa ngục, phải chăng là thân phận của con người hôm nay? Chúng ta đã nói, đời sống đức tin cho chúng ta nếm được nếp sống thiên đàng ngay ở trần gian nầy, thì con người hôm nay đã không muốn cần đến Chúa nữa, phải chăng là nếp sống hỏa ngục đã có ngay từ bây giờ rồi? Nhưng đức tin đưa chúng ta vào sự thông hiệp với Đấng Vĩnh Hằng, vô biên và là Tình Yêu, nhờ đó, chúng ta được tự do và được cứu rỗi. Tự do nầy, sự cứu rỗi nầy, chúng ta không giữ cho riêng mình, nhưng là để loan báo cho mọi người, và người đời càng dễ dàng tiếp nhận sứ điệp ấy, khi họ càng nhìn thấy nơi chúng ta, những con người mới, những kẻ được cứu thoát.
Đức bác ái mà con người đang cần, quà tặng mà họ mong chờ nơi chúng ta, trước hết, là nếp sống của chúng ta phải thế nào để sứ điệp chúng ta loan báo có thể tin được. Sứ điệp lạ lùng thật, nhưng là sứ điệp duy nhất có thể đem lại cho thế giới niềm hy vọng: Chúa hiện hữu và Chúa thương chúng ta.
Con người có thể không cần cơm bánh, nhưng không thể không cần đến Thiên Chúa. Đa số giới trẻ hôm nay đã từ chối những gì mà nền văn minh hiện nay đã cống hiến cho họ để đi tìm những gì họ chưa biết. Hơn bất cứ hoạt động từ thiện bác ái nào, thế giới đang mong đợi chúng ta một điều: chúng ta hãy chứng minh Thiên Chúa cho họ; Thiên Chúa hiện hữu vì chúng ta đã biết Ngài nơi Chúa Kitô. Tâm hồn chúng ta phải tràn đầy Chúa mới có thể tuôn trào vào thế giới tình yêu duy nhất có thể cứu vớt họ, vì đó không là một tình yêu nhân loại. Tình yêu nhân loại không thể hữu hiệu được, vì nó chỉ giúp chúng ta liên đới với người khác trong lao khổ của họ, và giúp chúng ta liên đới, chia sẻ nỗi thống khổ và sự chết của họ thôi. Tình yêu ấy càng thành thật, càng đau thương nhờ kinh nghiệm về sự bất lực của mình. Nhưng chúng ta là dụng cụ của tình yêu Chúa Kitô, của tình yêu duy nhất có thể cứu thoát. Tình yêu ấy có thể đem cho mọi người, cũng như cho chúng ta, sự sống và bình an.
02. Thiên Chúa, Đấng mạc khải
Chúng Ta đã nói về đời sống đức tin, nhưng chưa đi sâu vào chi tiết. Bây giờ, chúng ta hãy đi vào thực tế hơn để xem đời sống đức tin đòi buộc những gì. Trước hết, chúng ta hãy đứng về phía Thiên Chúa, Đấng mạc khải và sau đó, về phía con người có tri thức.
Thiên Chúa, Đấng mạc khải. Đời sống đức tin sẽ mang ý nghĩa gì, nếu chúng ta không nhìn về Thiên Chúa, Đấng mạc khải? Quả thế, chúng ta phải sống đức tin liên quan đến mạc khải mà Thiên Chúa tỏ ra chính bản thân Ngài.
Điều thứ nhất: cho đến ngày được thấy Chúa nhãn tiền, chúng ta chỉ biết Chúa nhờ một mạc khải trung gian mà thôi, chứ không trực tiếp. Thiên Chúa tự mạc khải qua những dấu hiệu, và những dấu hiệu Ngài chọn đều liên hệ với chương trình “tam diện”, đã in dấu trên con người trong suốt quá trình lịch sử nhân loại. Trong chương trình của các tôn giáo khác, trước khi kêu gọi Abraham và chọn dân Do thái, Thiên Chúa đã dùng vạn vật để mạc khải chính mình cho nhân loại. Trong Do thái giáo, dấu hiệu đó chính là tiên tri và việc thực thi những lời tuyên sấm đó. Và sau cùng, trong Kitô-giáo, Chúa tự mạc khải mình một cách trọn vẹn trong nhân tính của Ngôi Lời nhập thể. Lịch sử của mạc khải vẫn được tiếp nối qua ba giai đoạn nói trên, vì thế, chúng ta không nên xem những giai đoạn trước như không có giá trị.
Nếu chúng ta là kitô-hữu, chúng ta hãy sống liên hệ với Chúa qua trung gian của Chúa Kitô, nhưng điều ấy không loại bỏ một liên hệ với Chúa qua trung gian của mọi tạo vật. Thiên Chúa tự mạc khải cho con người qua các tạo vật, qua tiếng nói tiên tri và sau cùng, qua Chúa Kitô. Chúng ta biết Chúa, hay sống đức tin là nhờ liên hệ với việc mặc khải “tam diện” nầy.
Một mạc khải qua trung gian bao giờ cũng bao hàm một nguy cơ nào đó vì con người có thể dừng lại nơi dấu hiệu và tưởng rằng dấu hiệu chính là Thiên Chúa. Nguy cơ càng lớn khi con người càng khó vượt qua sự dày đặc tối tăm của dấu hiệu. Chỉ trong Chúa Kitô, nguy cơ ấy mới có thể vượt qua được, vì nơi Ngài, dấu hiệu không đưa về một Thiên Chúa xa xôi nữa. Trái lại, trong đời sống tôn giáo lệ thuộc vào mạc khải tiên tri, nguy cơ không nhỏ đâu.
Đúng thế, tạo thành là dấu hiệu của Thiên Chúa, nhưng Chúa vẫn ở xa và im lặng. Sấm ngôn của các tiên tri cũng là dấu hiệu của Thiên Chúa, loan báo Ngài và hứa ban Ngài, nhưng không thể ban Ngài được. Nếu con người dừng lại nơi những dấu hiệu đó: tạo thành, Lề Luật, lịch sử, họ sẽ bị giam hãm trong dò lưới của chúng và không thể được cứu độ. Tạo thành là con đường dẫn đến Chúa, nhưng có thể được biến thành thần tượng, chiếm lấy sự tôn thờ dành cho Thiên Chúa. Còn Lề Luật của Cựu Ước cũng có thể kìm hãm con người trong một sự công chính giả tạo mà thôi.
Khi tạo thành trở nên một chướng ngại trên con đường đi đến Chúa, nó sẽ không cho con người kiện toàn chính mình, vì con người vượt xa trên tất cả tạo thành. Khi con người trở thành một phần của một toàn thể, con người sẽ không còn giá trị. Thực vậy, con người chỉ có thể cứu rỗi chính mình, khi trở thành đối tượng của tình yêu bản vị của Thiên Chúa mà thôi.
Đó chính là nguy cơ của mạc khải nhờ vũ trụ. Chính Cựu Ước sẽ giúp chúng ta thoát khỏi nguy cơ đó. Quả thật, chúng ta vẫn tìm thấy lại mạc khải nhờ vũ trụ ấy, nhưng chúng ta gặp lại nó với thể cách nào đó, khiến nó không còn giam hãm chúng ta nữa và không thể ngăn cản chúng ta mở rộng tâm hồn để đón tiếp Thiên Chúa. Toàn thể tạo thành đều linh thiêng, và đúng thế, nhưng chỉ khi nào nó đưa đường về một Thiên Chúa siêu việt mà thôi. Tạo thành chỉ là tạo thành, không thể được xem như thần tượng.
Tuy nhiên, đối với chúng ta là kitô-hữu, cần phải sống liên hệ với Chúa nhờ mạc khải tự nhiên. vì, nếu tạo thành không là một dấu hiệu của Chúa đối với chúng ta, thì chúng ta sẽ bị phân đôi ra. Chúng ta sống đạo đức khi chúng ta suy niệm Lời Chúa, khi lãnh nhận bí tích, nhưng sau đó, trong đời sống thường ngày, những liên hệ của chúng ta đối với những tạo vật khác dễ làm chúng ta xa Chúa. Đó là nguy cơ, thực ra không phải của một lối sống đạo đức quan trọng của đạo Công Giáo, nhưng của một lối sống thiêng liêng nào đó chủ trương đạt tới Thiên Chúa nhờ một phương tiện đặc biệt là Kinh Thánh và các bí tích mà thôi. Và chính vì thế mà người ta có thể sống một nếp sống mà Chúa vẫn vắng mặt trong lãnh vực chính trị, thương mại, học đường hay cả đời sống gia đình nữa… tóm lại, mỗi khi những giá trị của cuộc sống nào không đưa chúng ta về với sự hiện diện của Chúa.
Thế nào là sống liên hệ với Chúa nhờ các tạo vật? Đó là nếp sống của thánh Phanxicô Assisi và của tất cả các thánh. Phải chăng vì thế thánh Phanxicô Assisi được hâm mộ ngay cả những người ngoài kitô-giáo? Trong kinh nghiệm tôn giáo của ngài, có một cái gì chung cho tất cả mọi tâm hồn thành tín. Dù chưa có thể tìm thấy Chúa qua sấm ngôn của các tiên tri, dù chưa chiêm ngưỡng được Ngài qua Đức Kitô, linh hồn đã biết được Chúa khi sống thông hiệp phần nào với các tạo vật sống động.
Còn chúng ta, chúng ta phải sống sự hiệp thông tình yêu ấy, không những để bảo toàn tính cách duy nhất của cuộc sống chúng ta, mà cũng để đạt đến một mức độ thánh thiện nào đó. Chủ trương sống mật thiết với Chúa Giêsu bằng cách cố gắng thoát khỏi những mối liên hệ đích thực với mọi tạo vật khác, chỉ đưa đến tình trạng băng hoại tâm hồn mà thôi. Mà thực sự có thể làm được như thế không?
Tôi đi dạo trên bờ sông Tibre, sáng nay. Một đàn chim hải âu lượn rà trên mặt nước, chui ngang qua móng cầu Saint-Ange. Tôi chiêm ngắm cảnh đẹp hữu tình và tâm hồn tôi chắp cánh bay cao. Chúa tự mạc khải và tự thông chuyển mình cho chúng ta qua tất cả các tạo vật, trong vẻ đẹp của chúng, trong sự oai nghiêm hùng vĩ của vòm trời, trong sự vững vàng của núi non, hay trong màu xanh bao la của biển: tất cả đều mang ấn tính của Chúa, không có gì mà không nhắc chúng ta về Chúa. Nếu con đường dẫn về Chúa phải là một cuộc vượt thoát khỏi thế gian thì cuộc sống đạo đức của chúng ta sẽ không thể sống được, và dù sao chăng nữa, thay vì nó cứu thoát chúng ta, nó sẽ tàn phá chúng ta. Có lẽ cuộc sống đạo đức “thiên nhiên” ấy chỉ là một bầu không khí trong đó tâm hồn chúng ta thở được, là một tâm tình mạnh mẽ sinh động của huyền nhiệm đang bao quanh chúng ta, là một linh cảm về một hiện diện hơn là một liên hệ cá thể. Thiên Chúa vẫn chưa tỏ hiện khuôn mặt của Ngài cho chúng ta. Vạn vật là một dấu hiệu của thần linh chứ chưa là một nhiệm tích của Chúa. Tuy nhiên, nhờ linh cảm mà vạn vật khơi lên trong lòng chúng ta, sẽ giúp đón nhận một mạc khải cao cả hơn, nó làm chúng ta chăm chú hơn để lắng nghe Lời Chúa. Chính trong lời nói mà Chúa tự mạc khải mình. Chính nhờ tiếng nói mà con người giao tiếp không những với thần linh mà thôi, mà với chính Thiên Chúa bản vị. Vì tiếng nói tỏ bày một ý định, nó bao hàm một Thiên Chúa bản vị, Đấng đã muốn ngỏ lời với con người.
Tạo thành có đó, nhưng tôi không biết nó hiện hữu cho tôi hay cho ai. Nó hiện hữu, nó mang đến một huyền nhiệm, nhưng hoàn toàn xa lạ với con người. Thi sĩ Leopardi đã quan niệm như thế. Vạn vật không thể cứu thoát con người, vì nó chẳng bao giờ biết con người. Tính “thần linh” trong vạn vật hình như chỉ làm cho sự cô đơn con người đau đớn và bi đát hơn thôi. Và chính vì thế mà tôn giáo nào không nhìn nhận một mạc khải nào khác ngoài mạc khải của vạn vật mà thôi, hình như chỉ hứa sự cứu độ cho con người bằng cái giá là từ bỏ lương tri và trách nhiệm cá nhân của họ mà thôi.
Với mạc khải qua tiên tri thì khác: lời nói được ngỏ với một ai đó. Thiên Chúa, khi Ngài nói với chúng ta, Ngài ngỏ lời như một người nói với một người. Ngài tự tỏ mình là một Thiên Chúa bản vị. “Ta là Đấng tự hữu”: đó chính là danh xưng của Ngài. Triết gia Martin Buber có lý: Trong cuộc mạc khải ở núi Khoreb, đại danh từ “Ta” quan trọng hơn động từ. Chính trong hành động ấy mà Thiên Chúa tự tỏ ra Ngài là một con người, Ngài nâng cao con người lên đến sự hiệp thông với Ngài và từ đó, xác định bản vị của chính người nghe Ngài.
Ngài ngỏ lời với chúng ta, Ngài tự mạc khải trong hành vi nhờ đó Ngài hiệp thông với chúng ta, nhờ đó Ngài ngỏ lời với từng người chúng ta. Khi sáng tạo, Ngài gọi mọi vật từ hư vô vào hiện hữu; khi tự mạc khải, Ngài mời gọi con người chia sẻ đời sống thân mật với Ngài. Tôn giáo vốn lệ thuộc vào mạc khải tiên tri, đòi buộc sự hiểu biết một Thiên Chúa bản vị và thiết lập liên hệ với Ngài. A-ba-ra-ham nên bạn thiết của Chúa, It-ra-en thành dân của Ngài. Hơn thế nữa: lời được ngỏ với con người không chỉ là một danh xưng Thiên Chúa tự ban cho mình; nó cũng bao hàm một lế luật mà con người phải kiện toàn, và một lời hứa mà chính Thiên Chúa chấp nhận thực hiện.
Nếu việc mạc khải ấy là luật, nó đòi buộc vâng phục. Con người sống liên hệ với Chúa không phải trong một cảm tưởng mơ hồ về thần linh nữa mà trong một đòi buộc luân lý phải tuân theo luật pháp. Thực ra tất cả các tôn giáo đều có một nội dung luân lý nào đó, nhưng chỉ có kitô-giáo mới kiện toàn mối liên lạc vĩnh viễn giữa tôn giáo và luân lý. Thiên Chúa chỉ ngỏ lời cá biệt với con người là để ban cho họ một lề luật, giúp họ sống theo thánh ý Ngài. Chúa phán truyền và con người phải vâng phục.
Chúa nói, và tiếng nói của Ngài báo trước những gì Ngài sẽ thực hiện. Như thế, tiếng nói của Chúa thực hiện một Lịch Sử. Chính Lịch Sử đó lại nhắm đến việc kiện toàn Lời Chúa. Và Lời đó lại được kiện toàn trong việc Nhập Thể. Lời đưa nhân loại lên đường và tạo nên lịch sử. Và lịch sử đã khởi đầu với ơn gọi Ab-ra-ham.
Chúng ta biết gì về những người đã sống trước thời Ab-ra-ham? Họ đã sinh ra và đã chết mà không để lại một vết tích nào. Chỉ có Chúa mới nhớ đến họ được. Chỉ có Chúa mới cứu vớt họ, vì không ai biết về họ ngoài Chúa.
Phải, lịch sử loài người khởi đầu khi Chúa gọi Ab-ra-ham. Khi Chúa kêu gọi con người, sự sống con người bắt đầu khởi hành: mục tiêu là sự sống đời đời, là sự Hiện Diện của Chúa, Đấng đã lên tiếng gọi. Thực ra, việc kiện toàn tiên khởi được thực hiện trong việc nhập thể của Ngôi Lời và cuộc đăng trình của nhân loại đã đạt đến mục tiêu trong biến cố độc nhất vô nhị ấy. Thời gian tiếp tục trải dài ra cho con người, nhưng như Đức Hồng Y Newman đã nói: “Mục tiêu đã nằm sẵn trong con đường rồi”. Vì chúng ta đã đến đích rồi, mặc dù chúng ta vẫn còn đi trên đường. Thân phận của kitô-hữu trên trần gian nầy thật mâu thuẫn. Chúng ta đã sống sự Hiện Diện của Chúa ngay từ bây giờ, vì Chúa Kitô đã ở với chúng ta, tuy nhiên, Ngài ở với chúng ta là để giúp chúng ta tiến tới, vì chúng ta chưa hoàn toàn kết hiệp với Ngài. Vì thế, nếu người kitô-hữu phải sống thông hiệp với Chúa, nhờ các tạo vật, thì hơn nữa, phải sống sự thông hiệp ấy nhờ việc lắng nghe Lời Chúa. Khi chúng ta chưa hoàn toàn sống sự sống của Chúa Con trong sự tự do viên mãn của tình yêu, sự vâng phục vẫn cần thiết; tuy đây không là sự vâng phục của một tên nô lệ, nhưng vẫn là một sự vâng phục đích thực, gồm sự từ bỏ ý riêng và sự hãm dẹp những đam mê.
Để sống theo lời Chúa, Kitô-hữu phải sống trong đức cậy. Và như thế, chúng ta vẫn tiến cho đến khi có thể đồng hóa hoàn toàn với Chúa Kitô. Đức cậy là nhân đức của người lữ hành và chính đức cậy nâng đỡ việc đăng trình của chúng ta. Đức cậy vẫn là yếu tố dẫn đường chúng ta đi, bao lâu chúng ta chưa đạt tới đích. Như thế, chúng ta phải sống thân phận kitô-hữu của chúng ta bằng cách nghe lời Chúa đang mời gọi chúng ta: Hãy đến đây !
Tuy nhiên, vẫn có một nguy cơ có thể đe dọa sự sống đạo đức đang lắng nghe mạc khải ngôn sứ. Thực vậy, Lời Chúa vẫn tự nó phát sinh hiệu quả, và thực hiện lịch sử, thúc đẩy con người bước đi trên con đường gần như vô tận. Và tuy nhiên, chính lời nói đối với con người, có thể trở thành một thứ thần tượng, trong mức độ nó chiếm đoạt địa vị của Chúa Kitô. Chính lời nói là một dấu hiệu mà con người phải biết vượt qua. Đúng thế, Lời Chúa có một mối liên hệ chặt chẽ với Chúa hơn tạo vật, và dù vậy, lời ấy dù là lời hứa hay lề luật, vẫn dẫn đến kiện toàn. Và cuộc sống đạo đức, lệ thuộc vào Lời Chúa, là một con đường, nhưng nếu chúng ta dừng lại trên con đường đó, nếu ta đoan quyết đoạt tới đích điểm nhờ vào việc nghe Lời ấy mà thôi, chúng ta rơi vào thế bất động của Do thái giáo. Lúc ấy Lề Luật chiếm địa vị của Thiên Chúa.
Quả vậy, trong Do thái giáo, vào thời Chúa Kitô, người ta không dám nêu danh Thiên Chúa, và Lề Luật thay thế Thiên Chúa. Vì thế mà Chúa Giêsu phải đấu tranh mãnh liệt chống lại luật ngày sabbat. Con người không được tạo nên cho ngày sabbat, nhưng ngày sabbat được thiết lập cho con người. Lề luật được quy hướng về con người để con người có thể lớn lên và đồng hóa với Thiên Chúa và đạt đến tự do hoàn toàn, vì lề luật của người tín hữu một cách mâu thuẫn, là tự do: lex libertatis.
Đàng khác, Lề Luật tạo nên dân tộc và dân tộc có thể thay thế Thiên Chúa. Do thái giáo đã chối từ Thiên Chúa khi Thiên Chúa từ chối phục vụ dân tộc.
Trong tôn giáo thiên nhiên, chính tạo thành có thể chiếm lấy chỗ của Thiên Chúa: trong tôn giáo tiên tri, điều đó có thể là lề luật hay dân tộc. Con đường của con người, nếu nó muốn đưa con người về với Chúa, phải là con đường luôn được đánh dấu bằng dấu hiệu của sự siêu việt; và con người không thể nghỉ ngơi trong sự hiểu biết, khi họ chưa đạt đến sự hiệp nhất với Thiên Chúa. Trong kitô giáo, con người sống sự kết hiệp với Chúa, có vẻ huyền bí, nhưng thực sự, vì dấu hiệu không đưa tới cái gì khác: chính Chúa Kitô là dấu hiệu và là nhiệm tích của Thiên Chúa.
“Ai thấy Ta là thấy Chúa Cha” Chúa Giêsu đã tuyên bố như thế. Nếu chúng ta sống đạo trong sự hiệp thông với Chúa Kitô, vâng phục mạc khải mà Chúa Cha đã tỏ ra nơi Người Con duy nhất của Ngài, chúng ta sẽ không thất vọng. Sự hiệp thông nầy, dù được thể hiện trong mầu nhiệm, là một sự hiệp thông đích thực. Chúng ta thực sự là anh em của các thánh trên trời, và ngay từ đời nầy, chúng ta đã sống chính sự sống thiên quốc rồi, trong huyền nhiệm, trong đức tin, nhưng thực sự. Sự sống thiên đàng vẫn ở đây, trong ta. Chính Chúa Kitô là sự sống vĩnh cửu của chúng ta, vì trong Chúa Kitô, Thiên Chúa đã thực sự hiến mình cho ta.
Nếu cuộc sống đạo đức của chúng ta, cuộc sống lệ thuộc vào mạc khải thứ nhất, đòi buộc chúng ta phải thiết lập một mối quan hệ với mọi tạo vật cách nào đó để tất cả đều trở nên dấu hiệu của Thiên Chúa; nếu cuộc sống đạo đức của chúng ta, cuộc sống lệ thuộc vào mạc khải của sấm ngôn, đòi buộc chúng ta phải lắng nghe lời Chúa với tất cả con tim, và suy gẫm liên tục lời ấy, cuộc sống đạo đức của chúng ta, chính nó, lệ thuộc vào mạc khải cuối cùng, đòi buộc chúng ta kết hiệp với Chúa Kitô. Chúng ta sẽ sống sự kết hiệp ấy, nhờ sự hiện diện mà Ngài đã hứa cho chúng ta. Ngài sẽ ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế trong việc công bố Tin Mừng và trong các nhiệm tích thánh. Ngài ở với chúng ta trong Giáo Hội, trong Đức Thánh Cha và trong người hèn mọn nhất trong anh em chúng ta. Nhưng Ngài cũng ở trong chúng ta nhờ Thánh Thần mà Ngài đã ban cho chúng ta; Ngài ở trong chúng ta, Ngài là “sự sống không rời được” của chúng ta (thánh Inhaxiô). Trong một sự phó thác vẹn toàn vào Thánh Thần, chúng ta sẽ kiện toàn mãi mãi sự hiệp nhất sâu xa với Ngài, và nhờ đó, sự hiệp thông của chúng ta với toàn thể Giáo Hội sẽ được kiện toàn, Giáo Hội, chính là Nhiệm Thể của Ngài.
03. Con người hiểu biết
Nếu Thiên Chúa tự mạc khải qua tạo thành và qua lời nói, sự sống hiệp thông với Chúa đòi hỏi phải siêu vượt mọi dấu hiệu. Đó là điều biện minh cho việc từ bỏ kitô-giáo hay đúng hơn việc từ bỏ cần thiết cho mọi cuộc sống đạo đức. Đây không phải là một sự từ bỏ đơn thường là không biết đến sự vật mà là siêu vượt mọi sự. Chính vì thế, đức thanh bần đòi buộc một sự siêu vượt: đây không phải là không biết đến của cải trần gian, không phải là không biết thưởng thức hay khinh chê nó, mà là hiểu biết chính xác giá trị của nó và chọn Chúa mà thôi: chúng ta từ chối không dừng lại nơi của cải đời nầy, vì chúng ta vượt xa tất cả để đạt đến Chúa. Cũng thế, đức trinh khiết không phải nằm ngoài phạm vi của hôn nhân, nhưng vượt qua ranh giới của hôn nhân. Chính hôn nhân công giáo hình như có một giá trị sư phạm: xuyên qua tình yêu nhân loại, con người được dẫn đến sự trinh khiết đích thực của hữu thể trong tình yêu độc chiếm của Thiên Chúa.
Bây giờ chúng ta hãy bước vào vấn đề: làm sao sống đời sống đức tin của chúng ta, không phải dưới viễn ảnh của Thiên Chúa, Đấng mạc khải, nhưng dưới quan niệm của con người hiểu biết. Sự hiểu biết Thiên Chúa, nhờ đức tin, không phải chỉ là một sự hiểu biết hoàn toàn trừu tượng. Lời Chúa trong Thánh Kinh đã dạy chúng ta rất rõ ràng: sự hiểu biết Chúa liên hệ đến lý trí và tất cả mọi quan năng của con người. Thực thế, lời Chúa nói với con người toàn diện trong sự độc nhất và trong cả sự nguyên tuyền của nó. Thực ra, người Do thái đã không quan niệm về lời nói như người Hy lạp: tiếng nói không chỉ là một biểu hiện của hữu thể mà nó mang theo một sức sinh động nội tại, nó quy hướng về hành động. Như thế, Lời Chúa làm cho chúng ta biết Ngài khi nó biến đổi chúng ta trong Ngài. Sự hiểu biết Chúa trong đức tin là một sự hiểu biết thiêng liêng và nó được diễn tả ra bằng những cơ năng thiêng liêng. Cũng như con người biết được vũ trụ nhờ những giác quan thế nào thì, trên bình diện thiêng liêng cũng vậy, những giác quan thiêng liêng là cơ quan nhờ đó con người liên hệ với Thiên Chúa. Ai muốn thấy mặt trời thì cần đôi mắt: như thế, nếu Thiên Chúa tự mạc khải, con người cần có một cơ năng đặc biệt để có thể thấy Chúa.
Đúng thế, đức tin có mắt để thấy Chúa, có tai để nghe lời Chúa, có tay để sờ đụng Chúa. Nếu không có những giác quan thiêng liêng ấy thì con người không thể biết Chúa, và chính những giác quan thiêng liêng nầy mới cho chúng ta một kinh nghiệm sống động về Chúa. Thường chúng ta hay nói về việc lắng nghe lời Chúa, nhưng không phải chỉ nghe mà thôi. Thánh Inhaxiô Loyola nói đến “cảm giác”, thánh Gioan Thánh Giá “sờ vào” Chúa. Thánh Têrêxa Avila nói đến việc “thưởng thức” và “thấy” Chúa. Đời sống thiêng liêng đối với thánh Phanxicô Assisi là một điệu nhạc thiên quốc. Trong Tin Mừng, thánh Gioan nói đến sự “chiêm ngưỡng “Chúa và nơi thánh Grêgôriô thành Nadian, chúng ta nghe nói đến “ánh sáng”. Thánh Bênađô nói đến “hôn và ôm ấp”. Đối với những nhà thần bí, sự sống thiêng liêng được xem như sự phối hợp yêu thương như vợ chồng giữa Chúa và linh hồn.
Con người sống cuộc sống tự nhiên của mình trong mối liên hệ với thế giới bằng giác quan của mình: cũng thế, họ sống đời sống thần linh của họ trong mối liên hệ với Thiên Chúa nhờ những giác quan thiêng liêng của họ. Nếu không còn liên lạc gì với sự vật nữa, chúng ta sẽ chết. Giác quan tự nhiên đối với tạo vật thế nào thì giác quan thiêng liêng cũng liên hệ với Chúa như thế.
Đời sống thần bí hình như, một cách nào đó, đi trước việc khổ hạnh và đi theo con người trong suốt cuộc sống thiêng liêng của họ. Nói rằng kinh nghiệm kitô-giáo là hoa quả cuối cùng của cuộc sống thiêng liêng là không đúng: ngay từ đầu, đức tin đưa chúng ta vào vũ trụ của Chúa, và hành động đức tin, theo thánh Tôma Aquinô, mang lấy tính chất là một kinh nghiệm.
Kinh nghiệm về Chúa, đối với chúng ta, lúc đầu, bao giờ cũng mơ hồ và nghèo nàn, vì chúng ta chưa trong sạch đủ, chúng ta còn lệ thuộc vào đam mê xấu xa của mình, nhưng nếu đời sống đạo đức của chúng ta ngày càng sâu xa và sống động, những quan năng của chúng ta được thấm nhuần tinh thần đạo đức, kinh nghiệm về Chúa của chúng ta sẽ sâu xa hơn, sống động hơn. Sống một cuộc sống thần linh có nghĩa là liên hệ với Thiên Chúa, một liên hệ thực sự dù trong đức tin, xuyên qua những dấu hiệu nhờ đó, Ngài tự mạc khải. Nhưng chính Chúa tự mạc khải, chính Chúa nói. Nếu Ngài không tự mạc khải, thì sự vật không còn là dấu hiệu: chúng sẽ trở nên dày đặc và che khuất Thiên Chúa.
Đúng thế, sự hiểu biết Thiên Chúa huy động toàn thể quan năng con người. Con người chỉ hiểu biết Thiên Chúa khi được Ngài chiếm hữu. Không phải toàn thể con người chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc thiên đàng sao? Trong đời sống vật chất, chúng ta biết sự vật và chiếm hữu sự vật, trong đời sống thiêng liêng, chính Chúa chiếm hữu chúng ta và như một cơn hỏa hoạn, Ngài soi sáng lý trí chúng ta, tiêu hủy mọi đam mê xấu xa của chúng ta. Chúng ta càng để cho Ngài biến đổi và làm cho chúng ta nên giống Ngài chừng nào, chúng ta càng hiểu biết Ngài chừng nấy.
Trong đời sống đạo đức được nối kết với việc mạc khải nhờ vũ trụ, sự hiểu biết Chúa chỉ là một cảm tưởng mơ hồ về Đấng thiêng liêng, đó chỉ là tiếng gọi làm cho con người tỉnh thức và chú ý đến huyền nhiệm như một mùi hương loan báo một hiện diện. Hơn một cảm tưởng về Chúa, nó là một linh cảm, hơn một liên hệ, nó là một tiên báo đem con người đến một mạc khải cao xa hơn. Sự vật, khi chúng ta xem nó như dấu hiệu của một hiện diện, đem chúng ta vào một không khí trầm lắng, dọn đường cho chúng ta đón nhận một mạc khải cao xa hơn, khi Chúa muốn tự mình thông truyền cho chúng ta. Cách hiểu biết ấy là chung cho mọi người. Tôi không tin vào vô thần. Nếu ai chấp nhận sống, tức là chấp nhận rằng sự sống có một ý nghĩa, và cái gì làm cho cuộc sống có ý nghĩa? Khi con người chấp nhận tạo thành, họ chấp nhận rằng tạo thành có giá trị của nó. Sống tức là mặc nhiên tin, tin vào cuộc sống, tin vào ý nghĩa và trong giá trị của sự sống. Nhưng ai có thể mang lại mang lại ý nghĩa cho cuộc phiêu lưu của con người, ai có thể mang lại giá trị cho tạo thành? Đứng trước huyền nhiệm của một cuộc sinh nở, đứng trước huyền nhiệm của sự chết, đứng trước vẻ đẹp huy hoàng của cảnh vật, không ai lại không cảm thấy một rung động thần thiên. Việc mạc khải do vũ trụ tạo nên một bầu khí tôn giáo bao trùm cả cuộc sống con người, làm nó rực sáng, mang cho nó một thứ duy nhất nào đó.
Chính trong bầu không khí đó, con người có thể lắng nghe lời Chúa. Nếu con người biết chú ý, Lời Chúa có thể đến với họ và, giữa muôn ngàn tạo vật, họ sẽ cảm thấy được kêu gọi. Đúng thế, chính lời Chúa kéo con người ra khỏi đám đông vì lời Chúa thiết lập một liên hệ với họ.
Một cuộc sống đạo đức đích thực và cá biệt chắc chắn sẽ biểu lộ ra trong sự lắng nghe. Thiên Chúa thông hiệp với con người, thiết lập liên hệ với con người, khi Ngài trực tiếp khuyến cáo họ, kêu gọi họ, ban cho họ lề luật của Ngài và hứa ban tình yêu của Ngài cho họ, Tất cả đều được biểu lộ qua một dấu hiệu là lời. Mối liên hệ với thiên Chúa trong dấu hiệu của lời giả định nơi con người cơ năng thiêng liêng của thính giác. Thiên chúa biết chúng ta và kêu gọi chúng ta. Và cuộc sống đạo đức là một đáp trả. Con người, một khi đã được khuyến cáo một cách cá biệt, cảm thấy mình phải dấn thân một cách cá biệt với Thiên Chúa: cuộc sống của họ sẽ tìm thấy một chiều kích mới, một giá trị tuyệt đối, nó siêu vượt sự trống không của thời gian đang trôi qua không cùng, nó siêu vượt sự mênh mông của một tạo thành trong đó mọi sinh vật đều như bị cuốn trôi, bị san bằng với hư không.
Con người nào sống một cuộc sống đạo đức cá biệt đã nghe thấy tiếng Chúa. Chỉ một mình Thiên Chúa có thể kêu gọi chúng ta, chỉ có Chúa mới biết tên chúng ta. Hơn thế nữa: Thật khó chấp nhận rằng con người nào sống thực sự một cuộc sống cá biệt và có thể tự thực hiện mình thành một con người, nếu không ngoi lên khỏi đám đông, khỏi cái tổng thể, nhờ đã đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa.
Nhưng chúng ta là kitô-hữu. Và chúng ta, các linh mục, chúng ta là dụng cụ của Thiên Chúa, Đấng đang ban lời của Ngài. Nếu Ngài đoái nhìn đến chúng ta và dùng những lời nói nghèo nàn của chúng ta, thì cũng chính Ngài nói qua môi miệng chúng ta. Nếu chúng ta nghe một người nào nói với chúng ta về Chúa, chúng ta hãy khiêm nhượng đặt mình trước huyền nhiệm của một Thiên Chúa đang nói với chúng ta.
Phải, chúng ta phải biết rằng, Thiên Chúa ngỏ lời với chúng ta. Trong lúc nầy, Ngài đang ngỏ lời với các bạn qua một linh mục nhỏ bé nhất của Ngài. Cuộc sống thiêng liêng, khi nó tùy thuộc vào mạc khải qua tiên tri, phải là một lắng nghe và sự lắng nghe nầy phải là lề luật của chúng ta suốt cuộc đời dương thế nầy.
Dù vậy, cuối cùng, đời sống thiêng liêng của con người không phải chỉ là nghe lời Chúa. Kitô-hữu, linh mục không chỉ lắng tai nghe, mà phải nói với Chúa và Chúa nói qua miệng lưỡi họ. Vì thế mà giáo phụ Simon đã nói: “Bây giờ bạn đã đọc xong, hãy xếp sách lại: lời chính là bạn.” Thực vậy, điểm cuối của cuộc sống thiêng liêng không phải lắng nghe một lời nói tiên báo của huyền nhiệm, mà là Ngôi Lời làm người trong chúng ta. “Và Ngôi Lời đã làm người.” (Ga 1,14). Đúng thế, đó là những gì đang diễn ra trong người kitô-hữu, và linh mục phải thực thi đến cùng huyền nhiệm đó, như cuộc Nhập Thể kéo dài. Cuộc sống kitô-giáo không chỉ là lắng nghe Lời mà thôi, nhưng còn phải tiếp nhận Lời trong ta, phải cưu mang nó, nhập thể nó vào trong chính đời sống chúng ta. Nó không phải là nghe hay nhìn thấy thị kiến, mà là hiệp nhất. Cuộc sống của kitô-hữu, của linh mục không thể chỉ gom vào cơ năng thính giác mà thôi, mà phải liên đới với cơ năng của thị giác và hơn thế nữa của xúc giác, như thánh Gioan đã muốn: cảm thức một hiện diện đang bao bọc và chiếm hữu chúng ta.
Người kitô-hữu được mời gọi nên thánh, và linh mục, nếu không là thánh thì có nguy cơ phản bội thánh chức và sứ mệnh của mình. Thánh Gioan, thánh sử, khởi đầu bức thư thứ nhất của ngài đã viết: “Những gì từ khởi nguyên, những gì chúng tôi đã nghe, những gì chúng tôi đã thấy tận mắt […] những gì chúng tôi đã sờ tới về Ngôi Lời sự sống […] chúng tôi loan báo cho anh em.” Sau thính giác và thị giác, kinh nghiệm thiêng liêng của vị tông đồ xem ra như được kiện toàn trong xúc giác thiêng liêng. Đời sống thiêng liêng được diễn tả trong chứng tá ấy, được kiện toàn trong sự hiệp nhất giữa con người và Thiên Chúa, trong Chúa Giêsu, Chúa chúng ta. Chính đó là điều chúng ta phải sống. Người kitô-hữu không chỉ lắng nghe lời Chúa mà đủ, nhưng phải sống với Ngài, hiệp nhất với Ngài: một sự hiệp nhất càng khiêm tốn, vui tươi, càng trở nên đích thực.
Chúng ta phải sống hiệp nhất với Chúa Kitô. Nghe lời Chúa vẫn chưa đủ, phải kiện toàn lời ấy: Chúa Kitô ở với chúng ta, ở trong chúng ta. Với tư cách là kitô-hữu và hơn nữa, là linh mục, chúng ta phải hành động nhân danh Ngài: chúng ta không thể tách rời khỏi Ngài, cũng không thể đợi đến ngày mai mới sống kết hợp với Ngài. Và, trên hết mọi sự, chức tư tế đòi buộc chúng ta sống hiệp nhất với Ngài. Nếu linh mục hành động in persona Christi, thì phải một lòng một ý với Ngài, một sự sống với Ngài mà thôi.
Thật, đời sống kitô-hữu và linh mục cao quí biết bao! Chúng ta không thể sống đời sống đức tin như một cảm thức, cũng không phải mơ hồ về thần linh như người Hy lạp, cũng không với một cảm tưởng mãnh liệt về trách nhiệm luân lý trước một Thiên Chúa đang điều khiển và đòi buộc chúng ta thực hiện thánh ý Ngài! Vì chúng ta phải sống hiệp thông đích thực với Chúa Kitô đang hiện diện, trong một tâm thức mãnh liệt về sự hiệp nhất với Ngài. “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,16) Và Ngài không sống “với chúng ta” như với các môn đệ trong thời gian Ngài còn ở trần gian; Ngài ban Thánh Thần cho chúng ta và nhờ Thánh Thần, Ngài sống trong ta. Lề luật kitô giáo được tóm lại trong Tin Mừng Gioan bằng câu nói của Chúa Giêsu khi Ngài hứa ban Thánh Thần cho các môn đệ: “Anh em hãy ở trong Thầy như Thầy ở trong anh em”(Ga 15,4). Làm sao có thể là kitô-hữu, là linh mục mà không hiểu được, hic et nunc, rằng khi chúng ta họp nhau nhân danh Ngài, Đấng Phục Sinh đang ở giữa chúng ta? Làm sao có thể là kitô-hữu và linh mục của Chúa Kitô mà không muốn được Ngài chiếm hữu, không cảm thấy rằng được Ngài chiếm hữu? Một “người khác” đang sống trong chúng ta; nhưng Chúa Kitô không còn là “khác” nữa; nhờ ơn Thánh Thần của Ngài, chúng ta là Một với Ngài.
Đó là những gì cuộc sống đức tin đòi buộc. Thế giới của chúng ta không chỉ là thế giới mà tay chúng ta sờ đụng và mắt chúng ta nhìn thấy mà thôi; thế giới đích thực của chúng ta là Chúa Kitô: chúng ta nhìn bằng đôi mắt của Ngài và chúng ta chỉ thấy Ngài thôi, chúng ta nói với môi miệng của Ngài và chúng ta chỉ còn là lời của Ngài thôi. Chúng ta cảm thấy được Ngài chiếm hữu và chúng ta đã thực sự được Ngài chiếm hữu rồi. Và đó chính là chiều hướng cần phải có để hiểu “ấn tính” của phép truyền chức thánh: một sự chiếm hữu bản tính nhân loại của chúng ta của Chúa Kitô, để nhờ chúng ta, Ngài còn có thể hoạt động và làm cho thế giới nhìn thấy Ngài.
Chúng ta chỉ sống chức linh mục của chúng ta khi chúng ta cảm nhận và muốn được Chúa chiếm hữu. Chúng ta không còn thuộc về mình nữa khi chúng ta là kitô-hữu. Phép rửa tội và các bí tích khác đã cho Ngài những quyền càng ngày càng lớn trên chúng ta. Và giờ đây, chúng ta không thuộc về mình nữa, chúng ta không thể đòi lại được nữa. Chúng ta không sống sự sống của mình nữa: chúng ta phải nhận thực điều đó và muốn điều đó từng ngày,với lòng khiêm nhượng thẳm sâu và, đúng vậy, nhưng với lòng thành thực và yêu thương. Và chính như thế, đức tin của chúng ta đưa chúng ta vào sống một cuộc sống yêu thương: chúng ta tự hiến cho Chúa Kitô để Ngài chiếm hữu chúng ta như Ngài đã chiếm hữu bản tính nhân loại mà Ngài đã nhận lấy từ cung lòng Đức Trinh Nữ.
Nhưng nếu chúng ta không muốn, sự hiệp nhất ấy sẽ không thể thành tựu được. Cũng thế, sự kết hợp nhân loại chỉ có thể thực hiện được khi vợ và chồng cùng ưng thuận như nhau, vậy,sự hiệp nhất tuyệt vời giữa Thiên Chúa và con người được thực hiện với sự đồng thuận của đôi bên. Ngài yêu chúng ta, Ngài muốn chúng ta thuộc về Ngài; từ khi chúng ta chịu phép rửa tội, Ngài đã chiếm lấy linh hồn và cả thân xác chúng ta, và hơn thế nữa, từ khi chúng ta nhận phép truyền chức thánh. Nhưng đáp lại, chúng ta phải tự hiến cho Ngài và mỗi ngày, chúng ta sống với tất cả sức lực chúng ta quà tặng mà Ngài đã ban cho chúng ta: lý trí, ý chí, cảm năng và cả đến thân xác chúng ta, Ngài có toàn quyền sử dụng. Và như thế, cuộc sống đức tin của chúng ta được thực hiện trong sự hiệp thông yêu thương đó, hơn nữa trong sự hiệp nhất đó: sự hiệp nhất của Thánh Thần, đòi buộc sự phân biệt vĩnh cửu của hai hữu thể, vì nếu sự phân biệt nầy chấm dứt, thì sự phân biệt giữa người yêu và người được yêu, lúc ấy sẽ không còn hiệp nhất nữa, thì cũng không còn tình yêu.
04. Chúng ta được sai đến cho ai?
Không thể tách rời liên hệ của chúng ta với loài người và đời sống của chúng ta trong Chúa; nhưng cũng không thể tách rời sự hiệp nhất của chúng ta với Chúa Kitô và mối liên hệ của chúng ta với dân Chúa và nhân loại.
Chức tư tế Kitô-giáo là một chức tư tế “thừa tác”, một chức tư tế để phục vụ. Trong thực tế, nét độc đáo của chức tư tế Kitô-giáo, trước tiên, là được cấu thành bởi một bổn phận, bởi việc kiện toàn một sứ mệnh đối với thế giới. Đúng thế, việc cứu rỗi chỉ có thể được thực hiện, khi con người kết hợp với Thiên Chúa, và hành động hợp nhất nhân loại với Thiên Chúa được Chúa Kitô thực hiện một lần duy nhất trên đỉnh Golgotha. Nhưng hành động ấy chính chức tư tế của chúng ta hiện tại hoá nó trong hy tế tạ ơn, và sự hiện thực ấy không chỉ là sự hiện thực hy tế của Chúa Kitô mà thôi, vì tất cả Giáo Hội đều được kết hợp nơi đó.
Bây giờ chúng ta hãy suy ngắm về sứ mệnh riêng biệt của chức tư tế của chúng ta. Chắc chắn rằng, dù là linh mục hay giáo dân, chúng ta phải sống đức tin. Nhưng đối với chúng ta, cuộc sống đức tin ấy càng khẩn thiết hơn, chính vì chúng ta mang lấy một sứ mệnh khác. Sứ mệnh của chúng ta chính là sứ mệnh của Chúa Kitô được nối dài ra trong thời gian. Đó là sứ mệnh của Chúa Kitô, Đấng sẽ dần dần bao trùm cả vũ trụ, cả nhân loại. Chúa Kitô đã muốn nhờ chức tư tế thừa tác mà Ngài ban cho chúng ta, đạt đến mọi người của mọi thế hệ cho đến tận thế. Khi còn một người phải cứu vớt, khi chương trình hiện tại vẫn còn, sứ mệnh của chúng ta trong trần gian này vẫn còn cần thiết. Cũng như Chúa Kitô, Ngài thống trị mọi thời gian và không bị siêu vượt. Ngài chính là sự hiện diện của Thiên Chúa được thông truyền cho thế giới, dù mọi sự đều thay đổi (đời sống xã hội, kinh tế, chính trị vv), chức tư tế của chúng ta hiện thực sứ mệnh của Chúa Kitô trong trần gian, cũng không bị thay đổi. Quan niệm rằng rồi đây, con người có thể không cần đến chức tư tế thừa tác nữa, xác quyết rằng rồi đây chức tư tế sẽ mất dần vai trò đặc thù của nó, một khi những điều kiện sống của con người thay đổi, nghĩa là Chúa Kitô sẽ bị siêu vượt, là chối bỏ đức tin vào Đức Kitô, Đấng duy nhất có thể cứu vớt thế giới.
Trước hết, chúng ta hãy suy xét những vấn đề sau đây:
– Chúng ta được sai đến cho ai?
– Ai sai chúng ta đi?
– Nội dung của sứ mệnh chúng ta là gì?
– Chúng ta phải kiện toàn sứ mệnh ấy cách nào và trong tinh thần nào?
– Chúng ta được sai đến cho ai?
Chắc chắn là cho những người của thời đại ta, những người anh em đang sống với ta và họ phải được đạt đến sự loan báo cứu rỗi, nhờ trung gian của chúng ta. Cho những người hôm nay mà ơn thánh Chúa Kitô, phải đạt đến nhờ những nhiệm tích thánh.
Nếu chúng ta muốn đến với những con người hôm nay, chúng ta phải biết họ. Công Đồng Vatican II dạy: “Vậy, phải biết và hiểu…hiểu thế giới chúng ta đang sống… hiểu những ước vọng, những mong chờ, hiểu tính cách của nó… nhiều khi rất bi thảm (Gaudiu, et spes). Phải nói thực rằng tôi không tài nào hiểu được thế giới tôi đang sống. Hiểu, hiểu thấu đáo, tôi tưởng rằng điều đó vượt quá khả năng của tôi. Thiên Chúa, chúng ta không thể đạt đến được, con người thì không thể hiểu được. “Quả tim con người rất phức tạp và xấu xa ! Ai có thể dò thấu được?” (Gr 17,9) Làm sao chúng ta có thể hiểu được một thế giới mênh mông như thế? một nhân loại thay đổi trong cuộc sống của nó? và đa diện trong muôn hình vạn trạng của nó? Dù vậy Công Đồng đòi buộc chúng ta như một nhiệm vụ: “Oportet” –“phải”. Vậy dù sao chúng ta cũng phải hiểu biết một phần nào thế giới mà chúng ta được sai đến. Chúa dùng chúng ta không phải như những vật vô tri. Chúng ta phải mang lấy trách nhiệm của mọi hành động chúng ta; chúng ta phải sử dụng tất cả trí óc và mọi khả năng của chúng ta. Là nguyên nhân dụng cụ, con người vẫn là con người, dù ở trong tay Chúa. Chúa muốn và tôn trọng phẩm giá của con người: nếu Ngài đã tạo nên con người, chính là để con người cộng tác với Ngài.
Càng tế nhị, công cụ càng lớn lao, con người cần phải dấn thân một cách tự do và chịu trách nhiệm về mọi quan năng của mình. Nhưng không bao giờ Thiên Chúa đòi hỏi nơi con người nhiều hơn lúc Ngài trao phó sứ mệnh linh mục và xem con người như một cộng sự viên thân tính và trao một công trình vĩ đại nhất: sự cứu rỗi thế gian. Vậy, những hoạt động của linh mục phải được hướng dẫn và soi sáng bởi lý trí. Linh mục phải biết rõ thế giới ngài được sai đến.
Đọc lại Hiến Chế mục vụ của Công Đồng. Trong phần nhập đề, các nghị phụ đã mô tả thân phận con người trong thế giới hôm nay. Thực ra phân tích rất tỉ mỉ, nhưng đó chỉ là một vài nét đại cương mà thôi, không thể làm sao hơn được. Triết gia Karl Jaspers, trong tác phẩm “tình trạng tinh thần của thế giới hôm nay” cũng chỉ đưa ra một số nhận xét về tình trạng chung của thế giới, nhưng những đề nghị canh tân hơi ngây thơ. Chúng ta không thể trông nơi một nhà chính trị hay một triết gia những liều thuốc để chữa bệnh của thời đại chúng ta. Những đau khổ của con người hôm nay, chỉ có Chúa, Đấng tha thứ tội lỗi mới có thể chữa lành được. Điều đó là một điều chắc chắn, mặc dù con người vẫn không biết.
Hiểu biết con người và nhân loại hôm nay là một điều cần thiết, vì chúng ta được sai đến với nhân loại. Chúng ta không thể được tha thứ nếu trong khi thi hành nhiệm vụ linh mục, chúng ta tỏ ra nhẹ dạ và không biết đến đòi buộc căn bản ấy. Dù sao chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng sự hiểu biết của chúng ta chỉ có thể rất tương đối và nghèo nàn, dù sự hiểu biết ấy có thể là sự hiểu biết của một chính trị gia hay của một triết gia. Thực tại của thế giới quá bao la, trí khôn của con người không thể bao gồm tất cả được. Hoàn cảnh có thể thay đổi bất thần, không cho phép chúng ta nghiệm xét được. Và hơn nữa, sự thay đổi sẽ không thể đoán trước được vì tự do của con người liên can trong đó. Tạo nên một tổng hợp là một việc rất khó.
Chúng ta không thể chú ý đến những gì không thể đo lường được, nhưng điều ấy vẫn có. Tôi mạn phép kể lại một kỷ niệm riêng. Năm 1952, một chính trị gia có tiếng đã mong gặp tôi. Vì lịch sự, tôi đã đến thăm ông. Ông đã phân tích cho tôi tất cả hoàn cảnh khó khăn của vấn đề chính trị Châu Âu và nước Ý, suốt gần mười tiếng đồng hồ. Phải thú thật rằng, sự ngây ngô của các chính trị gia làm tôi xúc động. Ông ấy nói với tôi rằng thời thế trở nên rối reng đến mức độ. Đức Chúa Trời cũng không thể lành mạnh hoá thế giới hôm nay được.
Sự gì đã xảy ra? Tôi không phải một chính trị gia và tôi không thể phân tích tình hình chính trị, nhưng thế giới vẫn tiếp tục quay tròn, lúc được lúc không, như từ xưa đến nay và hai mươi năm đã trôi qua rồi.
Chúng ta dễ tiên đoán những đổ vỡ, nhưng một điều dễ nhận thấy là những lời tiên đoán ấy không thành tựu như người ta tưởng. Thế giới vẫn tiến đều, đôi khi cũng khập khểnh, nhưng chắc chắn là nó phải như ý Chúa muốn mà thôi.
Chúng ta phải hiểu biết thế giới, nhưng chúng ta cần phải ý thức rằng sự hiểu biết của chúng ta rất tương đối. Và nếu chúng ta có biết chính xác cách gì đi nữa, sự hiểu biết của chúng ta cũng vô hiệu. Dù có biết rõ tình hình thế giới, chúng ta cũng không thể biết làm sao để thi hành sứ mệnh cứu rỗi của chúng ta. Hơn nữa, chúng ta càng biết rõ những đau khổ của thế giới hôm nay, chúng ta lại càng cảm thấy mình bất lực. Và nếu chúng ta chỉ có sự hiểu biết ấy mà thôi, chúng ta sẽ nản lòng và bỏ cả sứ mệnh của chúng ta.
Chúng ta được sai đến với ai? Với thế giới nầy. Nhưng nếu chúng ta phải hiểu biết những ước vọng của thế giới nầy, không phải là để đáp ứng những ước vọng ấy, Nếu Chúa Giêsu đã đáp ứng những ước vọng của dân Do thái thời bấy giờ, sứ mệnh của Ngài đã bị tan vỡ, vì Ngài phải thí thân làm chính trị. Cũng thế, nếu hôm nay chúng ta phải đáp ứng những nhu cầu của thế giới, chúng ta đã không là linh mục mà là chính trị gia, kỹ thuật gia hay xã hội học. Nhưng Chúa Kitô đã muốn chúng ta làm linh mục mà thôi. Nói thế, tôi có lầm lẫn không? Chắc chắn là không; Chúa muốn chúng ta làm linh mục. Chúa muốn chúng ta mang sứ mệnh cứu rỗi: chỉ có Ngài biết sứ mệnh ấy là gì và phải làm thế nào để đáp ứng đòi hỏi ấy.
Nếu chúng ta phải đáp ứng những ước vọng của thế giới, chúng ta cần phải tự hỏi xem chúng ta có những phương tiện để làm việc ấy hay không. Nhưng Chúa không cho chúng ta những phương tiện ấy, vì chúng ta không được gọi để làm việc đó. Chúng ta không thể có những dụng cụ cần thiết để giải quyết mọi vấn đề của thế giới, đó là lẽ đương nhiên. Tình hình thế giới phức tạp đến nỗi, những người như chúng ta chỉ là những con gà con nhỏ bé mà thôi, chẳng làm ích lợi gì cho ai đâu. Chúng ta chỉ có thể chắp tay lại và mong đợi sự trợ giúp của Chúa mà thôi; nhưng Chúa vẫn để chúng ta bất lực. Thực ra, sứ mệnh linh mục rất khó khăn và tâm hồn nào được gọi vào chức linh mục lắm khi cũng đâm ra bối rối. Nhưng sự bối rối của linh mục đứng trước công việc nặng nề phải gánh vác, không làm chúng ta nản lòng, nhưng càng kích thích lòng tin của chúng ta hơn, tin vào Chúa là Đấng đã trao cho chúng ta sứ mệnh cao cả ấy. Linh mục không có sức mạnh nào ngoài sức mạnh của đức tin, và đức tin có thể lay chuyển được quyền năng vô biên của Chúa. Thánh Gioan đã dạy rằng đức tin là chiến thắng của chúng ta. Chúng ta không có uy lực nào cả, uy lực của chúng ta chính là uy lực của Chúa. Tất cả mọi dụng cụ đều tan vỡ nếu chúng ta sử dụng mà không nhờ vào sự trợ lực của Chúa là Đấng đã kêu gọi chúng ta. Một dàn ná đủ cho Đavít hạ gục tên khổng lồ Gôlíat vì Đavít đã tin cậy vào Chúa. Chúng ta chỉ có thể tin cậy vào mãnh lực của Chúa thôi, là Đấng đã kêu gọi chúng ta và muốn dùng sự hèn hạ của chúng ta để mọi người thấy rằng chính Ngài hành động, và thành công đều do Ngài mà thôi. Chúng ta phải vận dụng mọi khả năng của chúng ta, vì việc phục vụ Chúa không là một trò đùa. Chúng ta không thể từ chối không dấn thân trọn vẹn khi Chúa kêu gọi chúng ta, vì nếu không, chúng ta không thành thật với Chúa. Nhưng khi chúng ta đã làm hết khả năng chúng ta rồi, chúng ta vẫn phải trông chờ nơi Chúa tất cả, và lúc ấy, chính Ngài sẽ can thiệp để kiện toàn công trình của Ngài.
05. Ai sai phái chúng ta?
Ai sai phái chúng ta? Câu trả lời xem ra quá dễ. Nhưng trước khi trả lời câu hỏi ấy, chúng ta hãy ôn lại một vài điểm đã nói trước.
Cần phải nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu đã làm thất vọng tất cả những ước muốn trần thế và chính nhờ thế mà Ngài đã thực hiện sứ mệnh Chúa Cha đã trao phó cho Ngài và đã cứu thế gian. Ngài đã làm thánh Gioan Tẩy Giả thất vọng. Khi thánh nhân sai hai môn đệ đến để hỏi Ngài có phải là Đấng người ta đang mong đợi hay phải đợi một người khác? Câu hỏi ấy biểu lộ một khủng hoảng tâm hồn của Gioan, lúc ấy ông đang ở trong tù. Như thế, ngay cả Gioan Tẩy Giả cũng phải trải qua những lúc đen tối để thanh tẩy niềm tin của ông. Những cám dỗ về đức tin vẫn không thể tránh được khi người ta còn có thể nhầm lẫn ý tưởng của mình với ý Chúa, hy vọng của mình với sự mong đợi của Chúa. Chúng ta cần phó thác vì Chúa mãi mãi là Đấng chúng ta không thể hiểu được. Nếu chúng ta muốn trung thành với Ngài, chúng ta phải vươn ra khỏi mọi tư tưởng, mọi ước vọng. Chúa xem ra làm chúng ta thất vọng, nhưng, thực ra, Ngài vẫn luôn kiện toàn kế hoạch của Ngài nhờ sự phó thác vô điều kiện của một đức tin thực sự trong sáng. Chúa vẽ một đường thẳng với những đường cong, tục ngữ đã nói thế.
Chúng ta hãy nhìn các tông đồ. Họ là những người đầu tiên được sai phái. Họ đã hiểu biết thế nào về thế giới mà họ được sai đến? Ngày cả xã hội Do thái mà họ là thành phần, có lẽ họ cũng chưa hiểu: họ là những người chất phát, nên đứng trước những vấn đề xã hội, chính trị và tôn giáo, có lẽ họ cũng chẳng hiểu gì sâu xa. Có lẽ những vị Hồng Y và Giám Mục và các nhân viên của phòng Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh hiện nay hiểu rõ tình hình thế giới hiện nay hơn các tông đồ hiểu thế giới ngày xưa. Nhưng các tông đồ đã biết gì về thế giới của họ là xứ Giuđê? Chúng ta phải vận dụng tất cả mọi khả năng chúng ta để phục vụ Chúa, nếu không, Chúa sẽ bẻ gãy chúng ta và loại trừ chúng ta. Nhưng không phải những khả năng của chúng ta đem lại lợi ích gì cho Ngài. Chúng chỉ là dấu chứng cho sự tận tâm của chúng ta trong sứ mệnh Ngài đã giao phó mà thôi.
Và đúng thế, Ngài thường chọn những người như những dụng cụ không mấy thích hợp, và trước khi sử dụng, Ngài lại bẻ gãy và làm cho chúng trở nên hư vô. Và chính lúc ấy, con người mới có thể làm việc Chúa. Khốn cho chúng ta nếu chúng ta tin tưởng vào những khả năng của chúng ta, và khốn cho chúng ta hơn, khi chúng ta thành công và bám víu vào thành công đó. Thành công, đối với một kitô-hữu, là một sự khốn nạn lớn lao nhất, vì họ sẽ không thể kinh nghiệm được sự vô tài bất lực của họ khi họ đáp ứng đòi hỏi của Chúa và họ dần dần có thể không còn lệ thuộc vào Chúa nữa.
Chắc chắn, tôi không bao giờ muốn cho ai phải gặp khó khăn, thử thách cam go, nhưng nếu ai thành thực phụng sự Chúa, người ấy sẽ gặp khó khăn. Đó chính là ân huệ cao quí nhất mà Chúa có thể ban cho những người Ngài chọn. Tôi không biết những người khác đã gặp những đau khổ nào, nhưng riêng tôi, tôi phải thú nhận rằng, trong đời linh mục của tôi, tôi nhận thấy không có lúc nào tôi được ân huệ lớn lao hơn lúc tôi bị gạt ra ngoài, bị “khớp miệng”, mặc dù những khó khăn ấy là những đau khổ nặng nề đối với tôi. Lúc ấy, tôi mới nhận thấy rằng tôi đã yêu Giáo Hội hơn chính bản thân tôi. Thử thách tôi phải chịu đã trở nên một bảo đảm cho tình yêu của tôi. Trước khi Chúa thử thách chúng ta, chúng ta có dám chắc rằng chúng ta đã yêu Ngài không?
Chúng ta hãy trở về với các tông đồ. Có lẽ các ngài đã hiểu biết phần nào thế giới Do thái, trong đó họ đang sống, nhưng họ biết gì về thế giới của người Hy Lạp và người La Mã mà họ được sai đến? Có lẽ chúng ta không thể quyết đoán rằng họ không biết gì cả, chúng ta cũng không biết gì về các tông đồ như Anrê, Philipphê hay Batôlômêô, nhưng ít ra, chúng ta biết rằng Phaolô biết rõ thế giới Hy lạp, và các thư ngài viết chứng tỏ ngài biết tư tưởng của phái khắc khổ, tư tưởng của người Hy Lạp, những luật lệ hiện hành thời bấy giờ của thế giới La Mã. Sự hiểu biết của Phaolô là một sự hiểu biết trực tiếp và cá nhân chứ không sâu xa. Đó chỉ là tầm hiểu biết thông thường của một nhà trí thức thời bấy giờ mà thôi. Không, ngài không hiểu biết nhiều về thế giới quanh ngài đâu, dẫu vậy, những gì ngài biết về nền văn hoá Hy Lạp. Ngài có quốc tịch La Mã, tất cả những yếu tố ấy, ngài đã sử dụng vào công việc truyền giáo của Ngài.
Các tông đồ khác cũng thế. Tuy tầm hiểu biết của họ về thế giới Hy-La và về ngôn ngữ chỉ hạn hẹp thôi, nhưng các ngài đã biết sử dụng đúng mức.
Cách làm việc của các tông đồ là mẫu mực đời sống linh mục của chúng ta. Chắc chắn chúng ta phải sử dụng mọi sự hiểu biết của chúng ta trong phạm vi của mỗi người, nhưng sự hiểu biết ấy chỉ tương đối mà thôi, và công việc chúng ta phải gánh vác lại quá nặng nề và mênh mông.
Thực sự, công việc Chúa trao cho chúng ta quá nặng nề và hình như nó đè bẹp chúng ta. Chúng ta phải đủ can đảm để hiến thân cho Chúa. Thực ra, chúng ta đã không can đảm lắm đâu, vì lúc chấp nhận làm linh mục, chúng ta có lẽ không ý thức bao nhiêu. Và đối với một thanh niên hai mươi lăm, hai mươi bảy tuổi, làm gì hơn được, mặc dù anh có thuộc lòng tất cả thần học và được điểm cao nhất? Sự hiểu biết của anh cũng chỉ là lý thuyết mà thôi. Nhưng khi đứng trước thế giới mình phải cứu vớt, phải đem Chúa đến, và lúc ấy mình không biết ăn nói làm sao, thực là một thử thách lớn lao! Chán nản và bối rối ! Chính lúc ấy, con người linh mục mới thấy rằng sứ mệnh lớn hơn mình và không có thể lấy tỷ lệ nào để so sánh giữa tài lực nhỏ bé của mình và công việc Chúa đã trao phó. Quyền lực chính trị, kinh tế, mức độ văn hoá và cả tuổi trẻ đầy hứa hẹn, cũng chỉ là không. Và chúng ta không biết làm sao để đạt đến thế giới, những linh hồn chúng ta thấy như hư mất và họ lại không muốn nghe nói gì về Chúa nữa.
Nhưng kinh nghiệm về sự bất lực của chúng ta không là một lý do để nản lòng, càng không là một lý do để chúng ta bỏ lửng sứ mệnh của chúng ta. Nếu Chúa cho chúng ta ý thức mãnh liệt về sự bất lực của chúng ta, đó là để niềm tin của chúng ta vào sức lực của Ngài càng ngày càng thanh trong và mãnh liệt hơn, vì chính Chúa đã sai phái chúng ta. Chúa đã đánh lừa chúng ta chăng? Tại sao, ngay lúc đầu, Chúa không cho chúng ta biết trước tất cả những khó khăn của công việc, tất cả những gì Ngài đòi hỏi? Một con người, trước khi dấn thân vào cuộc đời, có hiểu biết tất cả những gì đang chờ đợi họ không? Họ ý thức tất cả những gì là can đảm, hi sinh, nhẫn nại mà cuộc đời sẽ đòi hỏi họ không? Không ai có thể dấn thân vào đời mà không tin cậy vào sự trợ lực của Chúa. Đàng khác, người nào biết rõ rằng Chúa kêu gọi mình vào công việc của Ngài mà từ chối, người ấy có còn xứng đáng là người không? Và một kitô-hữu có còn là kitô-hữu nữa không nếu biết chắc rằng Chúa gọi họ vào chức vụ linh mục và họ lại không tin rằng Chúa sẽ giúp và nâng đỡ họ suốt cuộc đời linh mục để họ có thể trung thành?
Có cái gì khác có thể nâng đỡ chúng ta trong những lúc mệt mỏi, chán buồn, bối rối và khủng hoảng không? Chúng ta tất cả đều gặp những lúc ê chề ấy, và khốn cho chúng ta, nếu chúng ta không bao giờ biết đến những giây phút ấy, vì chúng ta sẽ kiêu căng, chúng ta sẽ trở nên vô ý thức. Tính kiêu căng sẽ làm mù mắt chúng ta và chúng ta sẽ không còn thấy sự khác biệt giữa thực trạng của chúng ta và những gì Chúa đòi hỏi.
Nhưng khi nhìn thấy sự chênh lệch ấy, chúng ta lấy sức lực đâu để bền vững trong việc tông đồ? Ai đã sai phái chúng ta? Chính Chúa sai phái chúng ta. Chúng ta đừng quên điều đó.
Và đây, chính là cái gì biểu hiện sự có mặt tích cực của Chúa trong lòng thế giới: sự kiện Chúa muốn dùng chúng ta, Chúa dùng những con người nhỏ hèn yếu đuối, không những là những con người, trên phạm vi nhân loại, là những người yếu đuối vì kém tài, kém hiểu biết, kém uy lực mà còn thường là mong manh và lắm khi thất tín.
Chúng ta phải là những vị thánh, những vị thánh đích thực… và trên đời này không có mấy người. Chúng ta phải cám ơn Chúa vì có lẽ không có thời nào như thời nầy, Chúa đã ban cho Giáo Hội một vườn hoa thánh thiện sung mãn. Trong hàng Giáo Phẩm hiện nay, biết bao nhiêu Hồng Y, Giám Mục thánh thiện. Còn các Giáo Hoàng? Tôi không thể kể hết được từ Đức Piô X, với lòng bác ái không cùng của Ngài, Đức Bênêđitô XV, Đức Piô XI, mạnh mẽ và vững chắc như một phiến đá. Đức Piô XII, mặc dù ngài bị công kích rất nhiều, rồi đến Đức Gioan XXIII, vị Giáo Hoàng được biết bao nhiêu người sùng mộ yêu mến… Chúa đã ban cho chúng ta những vị Giáo Hoàng tuyệt hảo! Tất cả những điều ấy có thật, nhưng vẫn chưa đủ. Khối thánh thiện ấy vẫn không thấm vào đâu đối với sứ mệnh của chúng ta. Đàng khác, sự thánh thiện của người khác không chuẩn miễn chúng ta khỏi nên thánh, cũng không bù đắp sự thiếu kém của chúng ta là những kẻ Chúa đã gọi và đang sống sứ mệnh của Chúa Kitô hôm nay.
Hình như thế giới hôm nay, vượt khỏi tầm tay chúng ta và không muốn nghe nói đến chúng ta nữa. Chúng ta vẫn biết như thế, chúng ta vẫn đứng hàng đầu trong lịch sử vì chúng ta sống với Chúa. Chúa không những là khởi đầu của lịch sử, Chúa cũng là cuối cùng của mọi tiến trình của lịch sử nữa. Dù lịch sử có tiến đến đâu chăng nữa, nó không thể đạt đến vị trí của người kitô-hữu vì họ ở bên kia mọi tiến triển của nhân loại. Không có một tiến hoá nào vượt qua được những gì người kitô-hữu đang sống, nếu họ sống trước uy nhan Chúa.
Chúng ta biết như thế; nhưng đối với thế giới hôm nay, chúng ta xem ra lạc hậu. Chúng ta trở nên đồ trưng bày cho viện bảo tàng. Trước mắt thế giới, Giáo Hội chỉ là một di tích của một thời đại đã chìm vào dĩ vãng. Chúng tôi nhớ một cảm giác nặng nề mà chúng tôi đã cảm thấy khi đến chơi với một vị Giám Mục lớn tuổi và thật khiêm tốn, trong một toà Giám Mục rộng thênh thang, nhưng bắt đầu đổ nát rêu phong. Sự sống xem như vắng mặt. Và tất cả đều thúc đẩy chúng tôi trốn chạy. Một lần khác, cũng một cảm giác nặng nề trống trải như thế, khi chúng tôi đến giảng phòng cho các thầy trong một tu viện. Tu viện mênh mông và các thầy đi co ro như những con sâu nhỏ…
Dù vậy, chúng ta phải biết và phải tin rằng Chúa đã trao thế giới này trong tay chúng ta. Không phải thế giới, cũng không phải lịch sử có thể cứu vớt chúng ta. Chính chúng ta phải cứu vớt thế giới.
Ai đã sai phái chúng ta? Chính Chúa. Chúng ta phải tin như thế. Sự nghèo nàn kém khuyết của chúng ta không còn là chướng ngại nữa mà là dụng cụ của Chúa Toàn Năng, đồng thời nó trở nên cho chúng ta một lý do để tạ ơn Chúa. Nghèo hèn và yếu đuối, Chúa vẫn sử dụng chúng ta. Chúng ta không cộng tác với thế giới mà với Chúa. Và Thánh Kinh đã xác nhận: chúng ta là cooperatores Christi, là những cộng sự viên của Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã cần đến sự nghèo hèn của chúng ta. Không có gì cao cả hơn, không có gì có thể làm chúng ta xúc động hơn là tình yêu của Chúa, không những đã tự hiến cho chúng ta mà còn mặc lấy bản tính nhân loại của chúng ta, sự nghèo nàn của chúng ta, làm như Ngài cần đến nó để thi hành ý định của Ngài. Ngài đã muốn xin sự nghèo hèn của chúng ta, như thể, nếu không có chúng ta, Ngài không thể cứu thế giới!
Hôm nay cũng như mọi thời, Chúa đã chọn những gì bị khinh miệt để làm hỗ ngươi những gì quyền quí, những gì yếu kém để làm bẽ mặt những gì mạnh mẽ. Chúa đã muốn chọn sự khiêm tốn, nhưng chính Ngài chọn. Sự chênh lệch giữa sự nhỏ hèn của chúng ta và sứ mệnh cao cả Ngài trao ban cho chúng ta được san bằng nhờ lòng thương xót và quyền năng vô biên của Ngài.
Được san bằng, nhưng với lượng nào? Với lượng đức tin của chúng ta. Khi chúng ta phó thác cho sức mạnh của Chúa, chúng ta cần cảm thấy rằng chúng ta chỉ là dụng cụ của quyền lực vô biên của Chúa. Thực hiện ý Chúa không phải là công việc của một con người, chỉ có Chúa mới có thể làm được. Đàng khác, thánh ý Chúa là gì, phải chăng là chính Chúa? Vậy, có cái gì của Chúa mà không phải là Chúa? Thực hiện thánh ý Chúa có nghĩa là thực hiện chính Chúa vậy. Con người phải kiện toàn một chương trình của Chúa, và chương trình của Chúa, là chính Chúa hiện diện trong lòng thế giới.
Chúng ta chỉ có một việc là phó thác tất cả cho Chúa, đó là sự khôn ngoan của chúng ta. Nếu chúng ta không muốn chìm sâu vào tuyệt vọng, nếu chúng ta không muốn bỏ phế công việc của chúng ta, chỉ có một việc phải làm là phó thác mọi sự cho Chúa trong đức tin. Chúa đòi buộc chúng ta tin vào Chúa, phó thác tất cả cho quyền năng vô biên Ngài. Nếu không, chúng ta chỉ còn một lối thoát là nhìn nhận trong bất lực hoàn toàn của chúng ta, sự phá sản không thể tránh khỏi
Đấng đã sai chúng ta đi không để chúng ta cô đơn. Chúng ta hãy nhớ những gì Chúa Giêsu đã nói trên đường đi tử nạn. Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài trở nên miếng mồi ngon cho sự sợ hãi âu lo. Những gì Chúa Cha đòi hỏi xem ra như vượt quá sức nhân loại của Ngài: “Bây giờ linh hồn Thầy rối loạn. Nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này…Lạy Cha, xin hãy làm rạng danh Cha (Ga 12,27-28). Và trong vườn Giêtsêmani, Ngài đã lặp đi lặp lại: “Lạy Cha, xin đừng theo ý Con nhưng xin cho ý Cha nên trọn!’ (Lc 22, 42). Đó là bài học Chúa Giêsu đã dạy chúng ta. Nếu Ngài đã làm trọn thánh ý Cha Ngài, là vì Ngài không đơn độc: “Nhưng Ta không bao giờ cô đơn cả” (Ga 16,32).
Như thế, Ngài dạy chúng ta đừng bao giờ ở một mình, hãy cảm nghiệm sự hiện diện của Ngài. Đấng đã sai phái chúng ta không bao giờ để chúng ta cô đơn đâu. Ngài đến với chúng ta. Làm sao Chúa có thể sai chúng ta đi như chiên giữa sói mà không ở bên chúng ta nhờ Thánh Thần Ngài, và không ở trong tâm hồn chúng ta? Và con người nào dám kiện toàn công việc của Chúa nếu Chúa không sống trong họ?
Chúng ta cần cảm thấy rằng Chúa Kitô trợ lực chúng ta và chính Ngài ở trong chúng ta, và chính Ngài đang hoạt động trong đời sống chúng ta. Đời sống chúng ta không phải là của chúng ta, nhưng cũng là của Ngài nữa. Ngài luôn hiện diện, hôm nay cũng như hôm qua trong thân phận con người, trong khiêm nhường và nghèo khó. Ngài vẫn là Con Thiên Chúa, Đấng cứu thoát thế gian, và Ngài đã sống nghèo nàn và ẩn dật, nhưng sự khiêm tốn ấy không ngăn cản Ngài kiện toàn công cuộc cứu rỗi thế gian. Trái lại, chính sự yếu hèn đã giúp Ngài thực hiện công việc của Chúa Cha trao ban. Sự yếu hèn của Thiên Chúa mạnh hơn sức lực con người. Cũng thế, Chúa Kitô hiện diện trong sự khiêm nhường và nghèo hèn của chúng ta làm cho chúng nên dụng cụ mà Chúa chọn để nối tiếp sứ mệnh Chúa Kitô. Và cũng như Ngôi Lời Thiên Chúa đã dùng cái chết trên thập giá của Ngài để cứu thế gian, hôm nay, Ngài cũng tiếp tục việc cứu rỗi ấy nhờ sự chết mỗi ngày của chúng ta, nhờ sự bất lực và nghèo hèn của chúng ta. Sự chết xem ra không ích lợi gì cho ai, lại là dụng cụ được Thiên Chúa toàn năng chọn để thực hiện công trình của Ngài. Nhưng có lẽ chúng ta lại tưởng rằng chúng ta sẽ không đồng số phận với Chúa Kitô sao? Trong trường hợp ấy, có lẽ đừng nên chấp nhận ơn gọi của chúng ta; vì từ chối không sống một đời sống như Chúa Kitô, là làm cho đời sống linh mục của chúng ta ra vô nghĩa vì đời sống linh mục là theo gương Chúa Kitô, hay đúng hơn, là thông phần vào chức tư tế của Chúa Kitô.
Chúa đã chọn cứu vớt thế gian bằng cái chết và sự khiêm nhường: ai tưởng có thể cứu thế giới bằng cách khác, dần dà sẽ phản bội chức linh mục của mình và hy vọng của nhân loại. Linh mục không thể muốn nên trọng hơn Đấng đã sai mình, và hành động hữu hiệu hơn Ngài: linh mục chỉ cần hiện tại hoá Huyền Nhiệm cho con người. Nơi đó mới thực là sự cao cả của linh mục và sự cao cả này không thể sánh với cái gì khác trên trần gian này.
06. Sứ mệnh của chúng ta
Chấp nhận sứ mệnh của chúng ta và sống sứ mệnh ấy đến cùng. Trong việc này, trách nhiệm của chúng ta là gì? Trong thực tế, nó là gì? Sứ mệnh của chức tư tế cốt tại việc cứu rỗi thế giới. Những sự cứu rỗi là một thiện hảo không thể phân chia. Chúng ta không thể phân biệt việc cứu rỗi linh hồn và việc cứu rỗi phần xác như từ xưa người ta từng làm. Về vấn đề này, không hồ nghi gì nữa: phải cứu rỗi con người toàn diện và Giáo Hội không thể tự miễn trừ cho mình một cái gì có thể chữa lành những vết thương của tội lỗi. Thế nên Giáo Hội không dửng dưng với những vấn đề trần thế như hòa bình, nạn đói, vấn đề lao động, y tế và giáo dục. Tất cả những gì liên can đến con người đều nằm trong lãnh vực của Giáo Hội, vì Giáo Hội muốn cứu rỗi con người toàn diện. Phân cách việc cứu rỗi đời đời và việc cứu rỗi con-người-trong-thời-gian, đang lúc chính trong thời gian mà con người phải được cứu khỏi vết thương tội lỗi, là chẳng khác nào phân cách công trình của Thiên Chúa sáng tạo với công trình của Thiên Chúa cứu chuộc, và cũng là đối nghịch Đấng Sáng Tạo với Đấng Cứu Chuộc. Việc cứu chuộc có một môi trường hoạt động như việc sáng tạo. Nhưng bản tính bị tổn thương do tội lỗi chỉ được lành mạnh nhờ một tiến trình thần-thiên-hoá mà thôi.
Điều này là một điểm căn bản. Nếu chúng ta quên điều đó, chúng ta có thể không đem lại cho con người những gì họ cần hơn hết, dù không phải là những thiện hảo quan trọng nhất, và tệ hơn nữa, chúng ta có thể lừa bịp thế giới. Thực ra, tất cả những hoạt động nào nhằm giải thoát con người khỏi hậu quả của tội lỗi mà không loại trừ chính tội lỗi, đều vô hiệu. Và công cuộc giảng dạy nào quên rằng điều kiện tiên quyết của công cuộc cứu chuộc là metanoia, là sự hoán cải, là một việc mị dân.
Hậu quả vẫn còn nếu nguyên nhân không bị diệt trừ tận gốc. Nếu những đau khổ của thế giới đều do tội lỗi, thì bao lâu tội lỗi còn tồn tại, thì đau khổ vẫn còn. Loan báo một hoà bình toàn diện và vĩnh viễn mà không mời gọi họ ăn năn đền tội, tự cứu thoát mình khỏi tính ích kỷ, là một cách lừa bịp họ. Con người hôm nay không còn tâm thức về tội lỗi và không biết xin lỗi Chúa là gì.
Chiến tranh vũ khí hay chiến tranh kinh tế, văn hoá, tôn giáo hay chủng tộc… con người hôm nay vẫn luôn luôn chống đối nhau. Thực ra, họ là những bệnh nhân. Con người không thể tìm được sự bình an hay một cái gì khác trên lãnh vực vật chất, nếu họ không tự giải thoát khỏi nguồn cội của mọi đau khổ là tội lỗi. Giáo Hội và những người thiện chí trên thế giới có thể đem lại cho con người một sự nâng đỡ nào đó cho những người đau khổ trên thế giới, nhưng đối với chúng ta là Kitô-hữu, không thể hoàn toàn chiến thắng được những đau khổ đó. Không có sự tha thứ của Chúa, thì cũng như thể con người có thể không cần đến Chúa nữa hay có thể khiêu khích Chúa mãi. Thực vậy, nếu con người có thể tự cứu thoát mình khỏi những tai ương hay đau khổ là những hình phạt và hậu quả của tội lỗi, mà không chạy đến Chúa trước, để nài xin Chúa thứ tha, thì quả thật, con người có thể bất cần đến Chúa, và hơn nữa, họ có thể phạm thêm vô vàn tội lỗi mà không thiệt hại gì. Nếu thực sự, việc cứu rỗi con người là một thiện hảo không thể phân chia được, thì lẽ đương nhiên việc cứu rỗi ấy phải loại trừ nguồn cội của mọi đau khổ trên thế giới này: đó là tội.
Sứ mệnh của linh mục là gì? Là một sứ mệnh quy hướng về con người toàn diện, nhưng trước hết là một sứ mệnh tôn giáo, một sứ mệnh tha thứ, hoà giải với Chúa. Đó là điều thánh Phaolô đã nói: “Tôi van xin anh em, hãy giao hoà với Chúa”. (2Cr 5,20). Đó là công việc đầu tiên mà chúng ta phải hiến thân thực hiện, vì bao lâu việc hoà giải ấy chưa được kiện toàn, tất cả những gì khác sẽ bị liên lụy và tất cả những gì con người có thể tạo nên sẽ biến thành những nguy hiểm mới và ghê gớm hơn. Quyền lực mà con người đã tạo được cho mình trong lãnh vực kỹ thuật, trở nên ghê sợ nếu con người không thánh thiện hơn. Vì nguy cơ vẫn còn là quyền lực ấy sẽ đưa đến một ách nô lệ nặng nề hơn cho con người và cho các dân tộc. Đó là một quyền lực phục vụ cho con người tội lỗi; thay vì đưa đến một dịch vụ tốt, nó có thể gây nên những tai hại lớn lao không thể đoán trước được.
Sự tiến hoá và sự tiến bộ không hẳn đi đôi với nhau luôn trong một chiều hướng đâu; và thời gian cũng không thể tự động mang lại một sự tiến hoá nào tốt đẹp hơn. Sự tự do của con người có thể gây nên những hiểm hoạ với những gì con người có thể tạo ra và như thế, mỗi người có thể bị nguy cơ mất linh hồn mặc dù họ đã trung thành với Chúa trong nhiều năm.
Sứ mệnh của chúng ta, trước tiên, gồm việc giao hoà con người với Thiên Chúa. Việc cứu rỗi con người khởi điểm chính trong thâm sâu của tâm hồn họ. Việc thi hành chức vụ của chúng ta đòi buộc một niềm tin sống động và sâu xa. Vì việc cứu rỗi con người bắt đầu trong tận đáy lòng con người, chúng ta không thể đo lường hay lượng giá kết quả hay sự hữu hiệu của việc chúng ta làm. Chúng ta chỉ có việc là gieo – khi gieo rồi, hạt giống nẩy mầm trong lòng đất mà chúng ta không hay biết. Chúng ta cần nhớ lại dụ ngôn trong Tin Mừng thánh Marcô: người gieo giống gieo xuống ruộng rồi đi về và hạt giống nẩy mầm như thế nào, anh cũng không hay biết, rồi thành cây lúa và trổ bông, sinh hạt. Và khi đến mùa gặt, chủ ruộng đến và gặt lúa về. Việc Giáo Hội cũng như thế đấy. Chúng ta cũng không biết, cũng không thể biết tầm rộng lớn cũng như sự hữu hiệu của hoạt động của Chúa trong bí nhiệm tâm hồn con người và canh tân họ. Chính vì muốn cho hoạt động ấy thiết thực và hữu hiệu phải đi thật sâu vào tâm hồn và lan toả ra từ trung tâm của con người.
Con người hôm nay hình như không còn biết đến tội lỗi là gì nữa vì họ không còn ý thức về tội nữa. Và như thế, việc cứu rỗi trở nên vô hiệu đối với họ. Thánh Augustinô đã nói: “Chúa cáo tội ngươi, nếu ngươi cũng tự thú; và ngươi chỉ có thể kết hiệp với Ngài khi việc cáo tội lưỡng diện đó bắt đầu”.
Con người chỉ kết hiệp với Chúa và sự cứu rỗi chỉ có thể khởi đầu khi con người nhận thấy sự nghèo hèn và nhận thức tội lỗi của mình. Kitô-giáo là một tôn giáo cứu rỗi và ơn cứu rỗi là một việc cứu chuộc. Chỉ những người bệnh mới cần đến lương y, chứ không phải những người lành mạnh. Khốn cho những ai không cảm thấy mình là tội nhân, họ tự loại ra khỏi ơn cứu chuộc. Không cần phải phạm tội mới cảm thấy mình là tội nhân. Thế giới không cần phải tự dìm mình vào vực sâu tội ác mới có thể nài xin Chúa tha thứ. Mỗi người chúng ta phải cảm thấy rằng mình cần đến lòng từ bi của Chúa. Từ sự tha thứ của Chúa, con đường cứu rỗi mới bắt đầu, và đưa con người không những đến việc phục hồi bản tính của mình mà còn đưa con người đến việc siêu vượt bản tính ấy trong sự hiệp thông sống động với Chúa nữa. Con người không những phải chiến thắng tội lỗi mà thôi mà còn được mời gọi siêu vượt một cách vô biên thân phận thụ tạo của mình trong Đức Kitô.
Đó là những gì chúng ta phải dạy cho con người hôm nay. Thánh Gioan Tẩy Giả đã rao giảng để dọn đường cho Chúa Kitô. Ông đã kêu gọi mọi người ăn năn sám hối. Đó cũng là sứ mệnh của chúng ta. Khởi đầu, chúng ta phải khuyến cáo con người, gọi họ vào thống hối, vì khi nào con người chưa cảm thấy cần Chúa tha thứ, sứ mệnh của chúng ta không thể đem lợi ích gì cho họ cả. Hoạt động của chúng ta sẽ như bị lơ lửng trong không trung, không động đến con người được, nếu họ không tự nhận mình là tội lỗi và không cần xin ơn tha thứ của Chúa. Con người chỉ có thể là con người đích thực khi họ trở nên con Chúa. Bản tính của họ chỉ lành mạnh khi họ đi vào chương trình của ơn cứu rỗi, ơn này bắt đầu canh tân sự kết hiệp giữa con người với Thiên Chúa. Nếu căn bệnh truyền kiếp của con người được lành mạnh, đó mới là tiến trình của việc thần-linh-hoá con người.
Hứa hẹn ban bình an không thể hiểu rằng là có thể ban bình an. Bao lâu con người không làm hoà với Chúa, họ sẽ không bao giờ hoà thuận với nhau. Chính việc hoà giải với Chúa mới đem lại mọi ơn lành khác. Và như thế, công việc nền tảng của linh mục là đem con người đến ơn tha thứ của Chúa và việc rao giảng sự bình an của Ngài. Sứ mệnh của chúng ta là đem Chúa cho con người, làm sao cho con người cảm thấy cần Chúa và cần sự tha thứ của Ngài. Chớ gì con người hiểu biết mình là gì khi không có Chúa và biết Chúa là ai đối với họ. Không có Chúa, con người không thể được cứu rỗi, đang lúc Chúa là sự nhân hậu vô biên.
Con người hôm nay tin cậy vào mình gần như tuyệt đối, nhờ vào những tiến bộ kỹ thuật, nhưng tôi sợ rằng, sự tự tin ấy báo hiệu một tàn phá lớn lao và một nỗi tuyệt vọng không phương cứu chữa. Dù vậy, con người không nên bao giờ tuyệt vọng – Tâm thức về tội mà chúng ta mang lại cho con người phải luôn luôn kèm theo sứ điệp yêu thương là nền tảng của Kitô-giáo. Sứ điệp yêu thương vô thường và vô biên, tình thương của Thiên Chúa được trao ban cho con người ngay khi họ là tội nhân. Tình yêu Thiên Chúa đến với chúng ta trong vực thẳm của sự hèn mạt vô phương cứu chữa của chúng ta, ngay trong vũng lầy tội lỗi chúng ta, miễn là chúng ta biết kêu đến lòng nhân hậu bao la của Ngài đang mong ước cứu vớt chúng ta.
Thánh Gioan đã viết lại những lời của Chúa Giêsu mà chúng ta đừng vội quên: những lời này còn rất thức thời. Sau khi Chúa chữa lành người mù từ khi mới sinh: “Chính để phán xét mà Ta đến trong thế gian này: ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy, còn kẻ thấy lại hoá mù.” Những người Pharisêu ở đó với Ngài nghe vậy thì nói với Ngài: “Dễ chừng chúng ta cũng đui mù đó sao? Chúa Giêsu bảo họ: “Nếu các ngươi đã đui mù ắt các ngươi đã chẳng có tội; nhưng này, các ngươi phân phô: chúng tôi sáng mắt! nên tội các ngươi vẫn còn!” (Ga 9,39-41). Chớ gì những người mà hôm nay tưởng rằng họ không cần đến Chúa nữa nghe biết từ môi miệng chúng ta rằng: Chúa đang chờ đợi họ; Ngài vẫn không mỏi mệt. Ngài vẫn còn chờ đợi. Nhưng ít ra chớ gì họ cần được Ngài thương xót, cần đến tình yêu vô biên của Ngài đang mong ước cứu rỗi con người và có đủ khả năng kiện toàn việc cứu rỗi ấy miễn là con người chấp nhận hồng ân của Ngài.
07. Trong tinh thần nào?
Chúng ta có thể thi hành sứ mệnh của chúng ta bằng cách nào? Không phải bằng những hoạt động nào mà là trong tinh thần nào chúng ta có thể đáp trả tiếng gọi của Chúa? Chúng ta phải hiến dâng cho Chúa thái độ nội tâm nào, những dữ kiện tâm hồn nào, để Chúa có thể, nhờ chúng ta, kiện toàn công trình cứu chuộc của Ngài?
Không có cách nào tuyệt hảo hơn để trả lời những câu hỏi ấy là dựa vào chúc thư của thánh Phaolô, nghĩa là những lời Ngài nói với những bậc lão thành ở Êphêsô, trước khi lên đường đi Giêrusalem, nơi ngài bị giam giữ.
Trong phần đầu tiên, vị tông đồ mô tả lại ngài đã cộng tác vào việc cứu rỗi anh em ngài với tinh thần nào, những tâm tình nào đã nung nấu ngài lúc bấy giờ trong khi ngài phục vụ các giáo đoàn và đặc biệt hơn hết là giáo đoàn Êphêsô mà ngài thương mến. Chúng ta chỉ cần đọc lại vài câu thôi, không cần phải giải thích: “Anh em biết, từ ngày đầu tiên, thoạt vừa đặt chân đến Tiểu-Á, tôi đã sống làm sao với anh em trong suốt thời gian đó. Tôi đã hết lòng khiêm tốn làm tôi Chúa, trong nước mắt và giữa những thử thách xảy đến cho tôi, do những âm mưu của người Do thái, làm sao tôi đã không e ngại và giấu giếm đi một điều gì hữu ích đến nỗi không loan báo, không dạy dỗ cho anh em, chỗ công cộng hay ở nhà tư. Tôi đã đoan chứng giảng cho Do thái cũng như Hy lạp, sự hối cải trở về cùng Thiên Chúa, và lòng tin vào Chúa chúng ta, Đức Giêsu”. (Cv 20,18-21).
Mục đích của sứ mệnh là sự hoán cải, metanoia. Đó là sứ mệnh của Gioan Tẩy Giả, cũng là của Chúa Giêsu. Những lời đầu tiên khai mạc cuộc sống công khai của Ngài là một lời kêu gọi dân chúng hối cải và làm việc đền tội. Thánh Phaolô cũng thế, khi ngài rao giảng, ngài mời gọi hoán cải. Nhưng sự hoán cải chỉ được biểu thị một cách đích thực trong niềm tin vào Đức Kitô mà thôi, vì con người chỉ quay về với Thiên Chúa hằng sống, khi tìm thấy khuôn mặt của Chúa Kitô. Niềm tin vào Đức Kitô trở nên bằng chứng cho sự thành thực trong việc hoán cải, về phía con người, và về phía Thiên Chúa, là bằng chứng của ơn cứu rỗi được hiện thực. Vì Thiên Chúa đã tự mạc khải nơi Đức Giêsu Kitô và chỉ nơi Ngài, Thiên Chúa mới tỏ lượng khoan hồng của Ngài. Trong Giáo Hội Đông Phương, xưng tội lỗi mình là kêu cầu danh Chúa Giêsu Kitô: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin thương xót con là tội nhân!” Giáo Hội Tây Phương cũng thế: “Kyrie eleison, lạy Chúa, xin thương xót con!”
Trong mối liên hệ mật thiết giữa sự hoán cải và niềm tin vào Chúa Giêsu ấy, tất cả Kitô-giáo trở nên một tiếng gọi vào hoán cải. Sứ mệnh của linh mục công giáo, theo thánh Phaolô, là chính sự hoán cải trong ân điển đức tin. Và thánh Phaolô đã sống sứ mệnh ấy thế nào. Chúng ta đã nghe biết chính lời ngài nói, trong lúc các tín hữu có thể làm chứng về sự xác thực của lời ngài: “Anh em đã biết…” Chi tiết này rất quan trọng! Giáo dân phải làm chứng về những gì chúng ta làm cho họ, và về tinh thần mà chúng ta đã tỏ ra trong lúc thi hành chức vụ của chúng ta. Chúng ta phải làm thế nào để tất cả Giáo Hội có thể nhìn thấy sự thành thực của tâm hồn chúng ta trong khi chúng ta thi hành sứ mệnh mà Chúa Giêsu trao phó cho chúng ta. Khi một linh mục được giáo dân của mình làm chứng cho mình, ngài có thể yên tâm vì chắc chắn việc làm của ngài đã hữu hiệu.
Tinh thần đã thúc đẩy thánh Phaolô trong việc tông đồ của ngài là sự kiên trì bền đỗ trong khiêm nhu. Tình yêu không thể nhập thể bằng cách nào khác ở trần gian này. Ai không khiêm nhường, sẽ không biết yêu. Tình yêu đòi hỏi quên mình. Nơi đâu tính tự kiêu ngự trị, nơi đó không có tình yêu. Thánh tông đồ đã nói: “Hết lòng khiêm tốn”. Đó là điều kiện đầu tiên của việc tông đồ. Và chính lòng khiêm nhượng làm cho chúng ta bền vững vì con người khiêm nhường, không cầu danh, không đòi hỏi sự biết ơn, nhưng chỉ biết tín thác vào Chúa thôi.
Nhưng đó mới là đòi buộc đầu tiên. Thánh Phaolô lại thêm: “Trong nước mắt”. Sự đau khổ của người tông đồ là niềm đau chia sẻ niềm đau của người khác. Chúng ta không thể dửng dưng trước đau khổ của thế giới. Chính trong sự chia sẻ sống động ấy mà lòng nhiệt thành tìm thấy sinh lực. Nếu Chúa Kitô đã gánh lấy tất cả trách nhiệm của tội lỗi loài người, chúng ta cũng phải gánh vác như Ngài: “Trong nước mắt”. Chớ gì chúng ta đừng bao giờ nhớ đến tội lỗi của “kẻ khác”. Nếu có tội lỗi của “kẻ khác”, thì chính “kẻ khác” sẽ được cứu thoát, vì Chúa Giêsu đã nên một với tội nhân đang lúc chúng ta, trái lại, chúng ta đã làm gãy đổ sự hiệp nhất, chúng ta trốn tránh liên đới với người khác, trốn tránh sự hiệp nhất của tình yêu. Chúng ta được sai đến với nhân loại để cứu vớt nhân loại, chúng ta phải gánh vác tội lỗi của con người để liên đới với họ. Sứ mệnh của chúng ta là sứ mệnh yêu thương. Sứ mệnh ấy chỉ có thể được sống thực khi chúng ta hiệp nhất với mọi người và sẵn sàng chịu trách nhiệm về mọi người trước mặt Chúa. Không thể có tội lỗi của “kẻ khác”, vì không có “kẻ khác” đối với chúng ta. Thánh Grêgôriô Narek đã cảm thấy mình đắc tội với những tay giết người, gian dâm, với tất cả tội lỗi thế gian. Ngài cảm thấy mình đồng hoá với tất cả nhân loại, từ khi Chúa gọi ngài làm linh mục. Ngài không thể tách rời phần rỗi của mình với phần rỗi của anh em nhân loại.
Đó là lý do tại sao thánh Phaolô đã đau khổ: mạt vận của thế giới là mạt vận của ngài. Ngài không tự tách rời ra khỏi người khác, ngài đau khổ vì tội lỗi người khác, ngài đau khổ vì cảm thấy mình bất lực trước nỗi thống khổ đang đè nặng trên thế giới. Thiên Chúa đã đòi hỏi ngài sống sứ mệnh của ngài bằng cách chia sẻ, thông phần cơn hấp hối của Chúa Kitô.
Hơn thế nữa, vì thánh Phaolô đã kinh qua những thử thách do người Do thái tạo nên cho ngài. Linh mục không chỉ mang lấy tinh thần yêu thương, linh mục phải mạnh mẽ, đầy sinh lực vì sứ mệnh của linh mục là khơi lên sự dữ. Trong Tin Mừng, nơi nào Chúa Kitô hiện diện, nơi ấy có sự hiện diện của Satan. Trong Cựu Ước, không có mạc khải rõ ràng về sự dữ. Trong sách Gióp, chúng ta thấy Satan nói chuyện với Thiên Chúa. Nhưng trong Tân Ước thì khác hẳn. mặt trời gây nên bóng tối, và sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đức Kitô làm lộ diện sự vắng mặt của Chúa, sự cô đơn, sự tàn phá ghê sợ của sự dữ. Sự hiện diện của một đấng thánh, của một linh mục, cũng đưa đến những hậu quả như thế. Chúng ta đừng hoảng sợ. Sự hiện diện của chúng ta bao giờ cũng gây nên sự bách hại. Phải có như thế, khốn cho chúng ta nếu sự hiện diện của chúng ta không gây nên một phản ứng nào cả! Tìm cách để làm vui lòng mọi người, tìm cách để được mọi người ủng hộ, là một cách nào đó, phản bội Chúa. Không phải vì Chúa đã muốn như vậy, nhưng đó là một việc hiển nhiên cần thiết. Sự thiện lột trần mặt nạ sự dữ và buộc nó phải lộ diện. Trước mặt Chúa Kitô, tất cả mọi tâm tình đều xuất hiện như cụ già Simêon đã tiên báo. Trong thừa tác vụ chúng ta cũng thế. Vì thế, sống tinh thần khiêm nhường cũng chưa gọi là đủ, sống yêu thương cũng chưa đủ, phải cần có một sức lực thiêng liêng mãnh liệt để chịu đựng những thử thách mà chúng ta sẽ không tránh khỏi được vì sự thành thực của đời sống tế hiến của chúng ta cho Chúa Kitô có thể khơi lên quanh chúng ta. Sự dữ chỉ có thể bị khuất phục khi, trước hết, nó đổ tràn trên chúng ta. Và, đúng thế, sự toàn thắng của tình yêu đòi buộc phải chịu đựng bền vững những nặng nề của hận thù và đã thắng vượt được nó. Hận thù không thể thay đổi tình yêu mà chỉ làm sáng tỏ tình yêu mà thôi. Như thế, Chúa Kitô, người thứ nhất, đã thắng vượt hận thù bằng tình yêu của Ngài.
Chúng ta hãy trở về với thánh Phaolô. Ngài đã nói: “Tôi đã không ngại và giấu giếm một điều gì hữu ích đến nỗi không loan báo, không dạy dỗ anh em…” Những lời nầy thật đầy ý nghĩa! Tất cả những gì một người nào có thể làm được, ngài cũng đã làm khi có thể phục vụ sứ mệnh của ngài. Ngài đã không bỏ quên một điều gì. Lời xác quyết ấy gây xúc động cho chúng ta. Ai trong chúng ta có thể nói được như thế? Dù vậy, chúng ta phải chứng minh được như thế nếu muốn trung thành với sứ mệnh của chúng ta. Chúng ta không thể nào chỉ cho đi nửa chừng. Khi Chúa gọi chúng ta vào công việc của Ngài, Ngài đòi hỏi chúng ta phải hoàn toàn tự hiến cho Ngài. Chúng ta không còn thuộc về mình nữa. Chúng ta không thể bàu chữa cho mình nữa; chúng ta không thể trốn tránh một trách vụ nào cả. Chúng ta không thể dành lại một cái gì cả: cả đến sự thông minh của lý trí, sức mạnh của ý chí, tâm tình, tư tưởng, sức khoẻ, tài năng, sự sống hôm nay, cũng như sự sống mai sau. Tất cả phải dùng cho sứ mệnh chúng ta. Thánh Phaolô nói: “Vì tôi ao ước trở nên kẻ bị chúc dữ vì anh em tôi” (Rm 9,3). Sứ mệnh của chúng ta đòi buộc sự toàn hiến. Nhưng chắc chắn, sự toàn hiến mà Chúa Giêsu đòi buộc tự nó, loại hẳn hoả ngục, vì nếu chúng ta đáp ứng những đòi buộc của Chúa, cho đến chết, chúng ta đã nằm trong tình yêu tuyệt hảo rồi.
Bây giờ, chúng ta hãy đi sâu vào những khía cạnh khác của sự toàn hiến của chúng ta cho Chúa. Phép thánh tẩy đã là một thánh hiến rồi, chức tư tế là một sự thánh hiến khác nữa. Sự toàn hiến đã dành riêng chúng ta cho Chúa rồi: chúng ta không còn thuộc về mình nữa. Chúng ta không thể dành lại cho mình một điều gì nữa. Trong thực tế, Chúa nhận lấy chúng ta cách nào? Tận hiến cho Chúa rất dễ khi sự tận hiến ấy chưa được sống thực sự trong sự trao phó thực tiễn cả con người chúng ta cho Giáo Hội. Nhưng, chính nhờ Giáo Hội mà Chúa đã chấp nhận sự toàn hiến của chúng ta, và chính lúc ấy, tất cả đời sống chúng ta, tất cả mọi khả năng của chúng ta đều được trao phó một cách thiết thực.
Như thế, sự toàn hiến cho Chúa để thi hành sứ mệnh linh mục đòi buộc chúng ta phải hoàn toàn bỏ mình, để hoàn toàn ở trong tay Chúa và Giáo Hội: chúng ta phải sống sự từ bỏ ấy như một hành động yêu thương, biết rằng, chính tình yêu sẽ đem lại cho sự toàn hiến của chúng ta giá trị thiết thực. Chúa đưa chúng ta vào những chức vụ cao cả, hay để chúng ta ở bên lề, không sao cả. Việc quan trọng là yêu. Có lẽ được đưa lên giá đèn dễ hơn bị để một bên – nhưng – ai biết được? Không phải được một sứ mệnh cao cả là hữu hiệu hơn là làm việc trong bóng tối. Dù ở đâu đi nữa, việc quan trọng là sống toàn hiến cho Chúa. Và, dù Chúa muốn đòi hỏi chúng ta điều gì đi nữa, chúng ta sẽ không thực sự sống sự toàn hiến nếu chúng ta không tìm thấy sự đau khổ, việc tử đạo ngay trong chính sự toàn hiến này. Một ngày nào đó, nếu Chúa ưng nhận lễ vật của chúng ta, Chúa sẽ đòi hỏi chúng ta chết cho Ngài, và hơn thế nữa, chính Ngài sẽ thực hiện sự dâng hiến của chúng ta bằng cách lấy tất cả những gì chúng ta có.
Đi vào một cách bình thản vui tươi trong kế hoạch của Chúa là một việc rất khó. Càng khó hơn khi Chúa ban cho chúng ta đặc ân được gọi vào đau khổ, vào một tình yêu thành thực hơn và hữu hiệu hơn khi tình yêu ấy được hoàn hảo trong cái chết của chúng ta. Hiến dâng nửa chừng, sống chức linh mục trong lúc rảnh rỗi là chối bỏ đòi buộc thiết yếu của tình yêu, là yếu tố nền tảng của chức linh mục. Trong sự thánh hiến của chức tư tế, Chúa Kitô đã chiếm hữu mọi khả năng của chúng ta cho đến chết. Tất cả bản tính nhân loại của chúng ta phải được dùng phục vụ Chúa Kitô Linh Mục. Tự chiếm lại mình là tương tự với việc lên án chính mình. Như thế cũng như là Chúa không còn muốn dùng chúng ta nữa, cũng như Ngài đã không biết dùng sự tận hiến của chúng ta để làm gì nữa cả.
Phải, sứ mệnh của chúng ta đòi hỏi một sự toàn hiến. Nhưng làm sao sống sự toàn hiến ấy, phải chăng là trong vâng phục? Chúng ta đã nói rằng tình yêu nhập thể trong đức khiêm nhường. Chúng ta hãy nhớ đến lời thánh Phaolô đã dạy chúng ta: đức khiêm nhường đích thực được chứng mình bằng vâng phục: “Ngài hạ mình hơn nữa, và vâng phục cho đến chết” (Ph 2,8). Đức khiêm nhượng là một nhân đức rất khó và có nhiều hình thức giả hiệu nhất. Thường nó là giả tạo. Làm sao chúng ta biết được mình có nhân đức khiêm nhượng? Nhưng có một tiêu chuẩn để biết được rằng chúng ta cũng có một phần tối thiểu về khiêm nhượng, đó là vâng phục. Sống sự toàn hiến của chúng ta cho Giáo Hội là biết vâng phục như Chúa Giêsu, đến chết trên thập giá. Và chúng ta phải trở lại với một nguyên lý này thôi: muốn sống sứ mệnh của Chúa Kitô, phải noi gương Ngài.
Tại sao không nhìn nơi Chúa Giêsu Kitô, mẫu gương tuyệt hảo của sự thánh thiện linh mục? Người ta đề cao sự tự do nội tâm của Thầy, người ta nhìn sự tự do ấy như một nét đặc thù của Ngài, đồng thời cũng là nét hấp dẫn nhất của nhân cách đạo đức của Ngài. Nhưng sự tự do đó, hình như là một phép lạ đẹp nhất của Ngài, chỉ là biểu hiện của sự vâng phục thánh ý Cha Ngài mà thôi. Và các thánh sử đã chú ý đến sự vâng phục của ngài hơn bất cứ nhân đức nào. Sách Tin Mừng không nói đến đức trinh khiết của Ngài. Điều đó là lẽ dĩ nhiên. Đôi khi các ngài cũng nói đến sự nghèo khó của Ngài. Nhưng các ngài đã nói rõ và nhấn mạnh đến đức vâng phục của Ngài. Tất cả đời sống nội tâm của Chúa Giêsu được biểu lộ trong sự vâng phục thánh ý Cha Ngài, Đấng đã muốn Ngài phải chết. Đối với Chúa Giêsu cũng thế, yêu mến Chúa Cha nghĩa là tự lột bỏ chính mình để theo ý Cha đòi buộc Ngài phải chết. Ngài không phạm tội, ý chí Ngài không bao giờ chống đối lại ý Cha, dù thế, Ngài là người, Ngài không thể không sợ chết. Để vâng lời Cha, Ngài đã phải kìm hãm bản tính nhân loại của Ngài, vì yêu và đã từ bỏ sự gắn bó tự bản năng vào sự sống. Như thế, tình yêu đối với Chúa Cha và sự cứu rỗi nhân loại đã là một cái gì nặng nề đối với Ngài, Ngài phải vâng phục đến chết. Còn chúng ta, chúng ta muốn thực hiện sứ mệnh của chúng ta, trong sự vâng phục đối với Giáo Hội một cách dễ dàng hơn sao? Chúng ta hãy dâng hiến lại cho Chúa tất cả. Chúng ta có may mắn được dâng hiến tất cả cho Chúa mà không được gì thế lại, ít nữa là dưới đất này. Trong sự hiến tế ấy, chúng ta đã sống thật sự, ân điển của Chúa: một tình yêu càng thiết thực thì càng trong trắng và vô vị lợi – vì không có gì cao cả hơn tình yêu, vì chúng ta không có tham vọng nào khác là phục vụ, tận hiến cho Chúa cho đến chết, như Chúa Kitô.
08. Trước tiên, linh mục là một nhân chứng
Sứ mệnh linh mục được kiện toàn trong việc thi hành những chức vụ riêng biệt của thừa tác vụ của chúng ta. Những chức vụ ấy, Công Đồng đã nói rõ: chức vụ tiên tri, tư tế và vương đế. Nhưng chúng ta hãy biết rõ rằng những chức vụ ấy, tuy riêng biệt, nhưng không tách rời nhau; người ta không thể thi hành một trong những chức vụ ấy mà không liên can đến những chức vụ kia, mặc dù, tự nhiên một hoạt động nào đó có thể làm nổi bật một chức vụ nào đó. Chức vụ linh mục được diễn tả trong chức vụ tam diện ấy: từ trước, các nhà thần học không phân biệt rõ rệt thẩm quyền cai trị và thẩm quyền giáo huấn. Người ta chỉ phân biệt quyền thánh chức và quyền cai quản mà thôi, và quyền giáo huấn được xem như một biểu hiện rõ rệt nhất của quyền cai quản mà thôi.
Hiện nay, sự phân biệt được rõ ràng hơn nhưng không phải là tách rời ra hay phân chia. Thực vậy, làm sao thi hành chức vụ vương đế nếu không nhờ lời nói? Đàng khác, lời nói không phải lúc nào cũng dùng vào việc thi hành chức vụ linh mục theo nghĩa hẹp hay sao? Phụng vụ Lời Chúa vẫn không bao giờ tách rời ra được với phụng vụ hiến tế. Tất cả, trong chức linh mục đều quy hướng về hiến tế như một sự hoàn tất.
Dù vậy, nếu những chức vụ ấy không tách rời nhau chăng nữa, thì một trong ba cũng đi trước những chức vụ khác và đó là điều hợp lý: chính là chức vụ tiên tri. Hơn nữa, nếu kế hoạch trần thế hiện nay còn phân biệt với kế hoạch của vinh quang thiên quốc, thì chính là vì chúng ta còn sống phần nào dưới một chế độ tiên tri. Sự kiện toàn của lề luật trong việc nhập thể của Ngôi Lời đã đánh dấu trên thời đầu của lịch sử Giáo Hội, huyền nhiệm được nối dài và lan rộng ra một cách nhiệm mầu. Chính Lời Chúa kêu gọi mọi sự ra khỏi hư không. Cũng chính Lời là khởi điểm của mọi sự theo Tin Mừng Gioan. Lời sáng tạo, nhưng cũng là Lời kêu gọi mọi người theo Chúa Kitô. Chính lời mời gọi: “Hãy theo Ta” của Chúa Giêsu đã làm nảy sinh ra cộng đoàn đầu tiên của Giáo Hội với một nhóm nhỏ các tông đồ. Chính Lời đã thực hiện sự duy nhất của loài người trong Đức Kitô. Công Đồng dạy: chính Lời đã quy tụ mọi kitô-hữu. Nhờ Lời mà Giáo Hội tiếp tục được xây đắp, tiếp tục quy tụ các dân nước để làm thành Thân Thể duy nhất của Chúa Kitô.
Chức vụ đầu tiên của thừa tác vụ linh mục là rao giảng. Điều đầu tiên chúng ta phải làm nếu chúng ta muốn thực hiện sự thánh thiện linh mục, là phải tìm cách thánh hoá mình trong thừa tác vụ của chúng ta. Vì quả thực, chúng ta không thể tách rời nỗ lực thiêng liêng của linh mục và việc thừa hành chức vụ. Việc thi hành chức vụ tiên tri của chúng ta có ý nghĩa gì đối với đời sống thiêng liêng và sự thánh thiện của tôi? Chắc chắn chúng ta không phải chỉ nói mà thôi. Có một bổn phận khác đi trước lời nói, như Công Đồng đã dạy một cách kín đáo: trước khi rao giảng, phải lấy đời sống mình làm chứng tá. Sắc lệnh về đời sống linh mục đã nói: “Chớ gì các linh mục nêu lên chứng tá của một đời sống gương mẫu trước mặt dân mình…” Trước khi rao giảng, chúng ta hãy là Lời đã. Linh mục không phải là một máy phát thanh mà là một người. Chúng ta luôn luôn trở về với một nguyên tắc: trong tay Chúa, con người vẫn là con người và luôn luôn chịu trách nhiệm về những hành động của mình, cũng như vẫn có thể tự do hiến thân cho Chúa. Linh mục phải phục vụ Chúa với mọi khả năng của mình, để Chúa sử dụng tuỳ ý Ngài. Nhưng làm sao được như thế nếu lời loan báo đi ngược lại với cách sống của người nói lời ấy? Trước khi lên tiếng, linh mục phải Tiếng Nói đã.
Thực ra như thế là đòi hỏi quá đáng. Lời Chúa mà chúng ta phải loan truyền luôn luôn vượt xa chúng ta, vì đó là Lời Chúa.
Quả quyết rằng chúng ta phải đồng hoá với Lời mà chúng ta loan báo là vô lý và phạm thượng, nhưng dù sao chúng ta không thể hoàn toàn đồng hoá với Lời ấy, ít ra cũng phải làm sao cho Lời ấy đáng tin.
Thực ra, rất đơn giản: Lời mà chúng ta loan báo cần có một dấu hiệu để người ta có thể tin theo. Tự nó, Lời ấy không rõ rệt, và nếu muốn được chấp nhận, nó phải tự tỏ ra là Lời Chúa. Để Lời ấy được chấp nhận, phải có tư cách khả tín, và sự khả tín của một lời nói tuỳ thuộc vào người loan báo lời ấy. Người ta có thể nói rằng dấu hiệu khả tín ở nơi Giáo Hội đã sai phái chúng ta. Nhưng đối với người nghe ta, Giáo Hội là ai, phải chăng là chúng ta, là những người đang nói? Phải chăng chính chúng ta làm cho Giáo Hội hiện diện trong hành động rao giảng của chúng ta? Chắc chắn, Lời vẫn đích thực, mặc dù chúng ta không là những bậc thánh, nhưng nó sẽ không còn xác thực đối với những người nghe chúng ta.
Thiên Chúa không liên kết một cách vĩnh viễn sự hữu hiệu của chức thánh với sự thánh thiện cá nhân của người thi hành chức vụ ấy, và một linh mục có thể làm thành sự một bí tích mặc dù đang ở trong tình trạng tội lỗi. Nhưng về phần chức vụ tiên tri và việc giáo huấn, Chúa không hứa cho Giáo Hội cái gì khác ngoài đoàn sủng bất khả ngộ. Sự bất khả ngộ là một điều cao cả: mặc dù hôm nay, người ta đã phản kháng điều ấy, chúng ta vẫn không có quyền hồ nghi vì Chúa đã muốn ban cho Giáo Hội một bảo đảm như thế. Dù ơn bất khả ngộ không bảo đảm sự hữu hiệu cũng như sự hợp thời. Chúa không hứa ban sự hữu hiệu cho lời nói của các linh mục của Ngài. Công Đồng cũng có thể trở nên vô hiệu, mặc dù đã mở ra một kho tàng giáo thuyết hết sức phong phú, nếu không có những người thánh để làm cho sứ điệp của Công Đồng có tính cách khả tín trước mặt thế giới. Sự hữu hiệu của Công Đồng Triđentinô không do những sắc lệnh mà ra, vì những sắc lệnh không là sự sống. Chính Công Đồng Triđentinô đã mang lại sự canh tân cho Giáo Hội vào thế kỷ XVI, nhưng Công Đồng đã nhờ các đấng thánh mà tìm được dấu hiệu khả tín làm cho người ta chấp nhận Công Đồng.
Đối với Giáo Hội hôm nay, đó là một vấn đề hệ trọng. Tôi không hiểu chúng ta có ý thức không. Công Đồng chung như Vatican II, tự bản chất, đòi hỏi nơi chúng ta một sự thánh thiện vượt bậc. Công Đồng Triđentinô làm nổi dậy cả một trào lưu thánh thiện đang làm chóa mắt chúng ta: chúng ta hãy nghĩ đến các thánh như Carôlô Bôrômêô, thánh Phanxicô Xaviê, Inhaxiô Loyola, Têrêxa Avila, Gioan Thánh Giá, và bao nhiêu đấng thánh khác. Và bây giờ, Công Đồng Vatican II, không chờ đợi một trào lưu thánh thiện mới để Giáo Hội được canh tân sao? Thực ra, Công Đồng không định tín thêm một tín điều nào, cũng không lên án một bè rối nào, nhưng có phải đó là một lý do để bảo rằng Công Đồng Vatican II không có tham vọng như Công Đồng Triđentinô sao? Tổng số các văn kiện được công bố, những đề tài được đề cập đến, ngôn ngữ thần học mới cũng đủ chứng minh ngược lại.
Luật lệ không làm nảy sinh sự sống. Bộ Giáo Luật chứng thực một Giáo Hội sống động, nhưng không làm cho Giáo Hội sống. Vậy thì không phải chỉ những người loan truyền Lời Chúa mới bị buộc sống thánh thiện, mà tất cả Giáo Hội, hơn lúc nào hết, có nhiệm vụ sống thánh thiện để Lời được khả tín, và Lời nầy chính là canh tân, là hy vọng và là sự sống của thế giới. Tôi tin rằng Công Đồng có thể canh tân thế giới với những điều kiện là sự thánh thiện của Giáo Hội phải thế nào để sứ điệp của Công Đồng được khả tín và hữu hiệu. Tại sao sau Công Đồng, chúng ta không chứng kiến một mùa xuân mới, một lễ Hiện Xuống mới mà là một cơn khủng hoảng ghê sợ? Phải chăng đó là dấu hiệu Chúa đã lên án chúng ta là đã muốn cứu vớt thế giới chỉ vì chúng ta đã công bố nhiều Hiến Chế và sắc lệnh? Có lẽ chúng ta đã ảo tưởng đã thi hành sứ mệnh của mình bằng cách thiết lập những luật lệ mà không hoàn toàn dấn thân, từ người trên đến người dưới, vào một sự thánh thiện tuyệt vời.
Nếu tiếng nói của chúng ta không nhờ sự thánh thiện của mình mà nên khả tín, thì chúng ta càng nói, những tiếng nói của chúng ta càng vô hiệu. Tiếng nói chỉ nối tiếp tiếng nói mà thôi. Nhiều lời chỉ chứng minh sự trống không và sự cằn cỗi của nó mà thôi, và nó trở nên một sự trống không ghê rợn. Tiếng nói không hấp dẫn người khác vào một sự vâng phục trong sáng hơn hay vào một tình yêu say nồng hơn, sống động hơn; nó tự đủ cho mình, nó chỉ còn là một trò biện chứng mà thôi. Nếu Lời Chúa không được thực hiện trong chính bản thân chúng ta, nếu nó không nhập thể vào trong chính đời sống chúng ta, chính nó sẽ xét đoán chúng ta, và việc rao giảng của chúng ta trở nên án phạt cho chúng ta.
Một vấn đề đáng sợ! Vì phần rỗi của chúng ta và của thế giới mà chúng ta được sai đến liên can ở đây. Chúng ta phải là Lời. Việc “nhập thể” của Lời trong ta là một dấu hiệu bảo đảm chân lý của Lời ấy. Phải, Lời là thật; sau Tin Mừng, biểu hiện của quyền giáo huấn của Giáo Hội là Lời cao cả nhất mà con người có thể có được ở trần gian này. Nhưng chính vì lẽ ấy, chính vì sự tôn kính đối với Lời ấy và vì ý nghĩa của trách nhiệm của chúng ta đối với thế giới, chúng ta phải là dấu hiệu để Lời ấy có thể tin được. Thực ra, không phải sự thánh thiện của chúng ta có thể làm cho Lời Chúa được hữu hiệu, nhưng chính sự nghèo nàn thiêng liêng của chúng ta làm cho nó què quặt, tê liệt đi và trở nên vô nghĩa. Chắc chắn rằng, ít ra sự hữu hiệu thực tiễn của lời nói được liên kết với sự thánh thiện của người nói. Vì thế, dân chúng không tin vào những bài diễn văn chải chuốt, những lời nói sâu xa, mà chỉ tin vào sự thánh thiện. Không có một giám mục nào lừng danh vào thế kỷ qua ở nước Pháp đã làm ích lợi cho người ta bằng Cha sở họ Ars. Ngài không có khoa ăn nói. Trong những năm đầu đời linh mục của ngài, ngài đã dạy nhiều điều sai lạc, nhưng tiếng nói nghèo hèn của ngài đủ để hoán cải các tâm hồn và canh tân lương tâm con người.
Điều kiện đầu tiên để được tôn phong tiến sĩ Hội Thánh là sự thánh thiện. Giáo Hội chỉ phong tiến sĩ cho các đấng thánh mà thôi. Chính nhờ sự thánh thiện mà Lời Chúa được loan báo trong thế giới. Đó là những chân lý có thể làm cho chúng ta hoảng sợ, nhưng chúng ta không có quyền làm thinh. Vì điều này liên can đến phần rỗi của cả Giáo Hội và của cả thế giới. Nỗ lực lớn lao của Giáo Hội trong Công Đồng Vatican II vừa qua có thể chìm sâu vào hư vô nếu chúng ta không là thánh, và nếu nhờ sự thánh thiện của chúng ta, chúng ta không đem lại cho Lời Chúa ánh sáng và sức mạnh có thể làm cho nó nên hữu hiệu. Một lần nữa, tôi xin nhắc lại: không phải chúng ta làm cho Lời Chúa nên hữu hiệu. Lời Chúa, tự nó đã hữu hiệu rồi, nhưng sự bất toàn của chúng ta có thể làm cho quyền năng vô biên của Chúa bị tê liệt vì Chúa đã muốn dùng chúng ta như dụng cụ của Ngài. Không phải chúng ta đem lại cho Lời Chúa sức hữu hiệu, nhưng chính chúng ta có thể làm cho nó không thể sinh kết quả. Trách nhiệm đang đè nặng trên chúng ta thật lớn lao, trong giờ phút nghiệm trọng này của Giáo Hội.
Nhưng sự thánh thiện nào có thể làm cho Lời Chúa được khả tín? Tôi tưởng rằng sự thánh thiện mà chức vụ tiên tri đòi buộc phải có gồm hai đặc tính: Thứ nhất là lòng khiêm nhượng. Chúng ta đã nói ở trên, Lời Chúa mà chúng ta loan báo luôn luôn vượt xa chúng ta ngàn trùng. Chúng ta phải chấp nhận để cho Lời chúng ta loan báo lên án chúng ta.
Khi chúng ta ngỏ lời với người khác, trước tiên, chúng ta phải cảm thấy như Lời ấy đoán xét và lên án chúng ta. Chính vì Lời Chúa vượt xa chúng ta, chúng ta không thể nào nhìn thấy được sự chênh lệch giữa những gì chúng ta loan báo và đòi buộc của kẻ khác và sự thật của chính con người chúng ta. Chính lúc chúng ta cảm thấy bị đoán xét như thế, mà sự bất hảo của chúng ta không gây thiệt hại cho Lời Chúa. Điều mà Lời Chúa thực hiện trước hết, trong con người loan báo là gây một cảm tưởng thật sâu xa về chính sự bất xứng của mình. Chỉ người khiêm nhượng mới không chiếm lấy địa vị của Lời Chúa, và chỉ có người ấy mới có thể là dụng cụ của Lời Chúa. Con người kiêu căng chỉ nói về mình, chỉ nói nhân danh chính mình. Nhưng đúng vì lý do đó mà lời người ấy loan báo mất đi quyền năng của Chúa, và thay vì gây nên sự hoán cải trong tâm hồn người nghe, lại gây nên sự chống đối và tạo nên một phản ứng từ chối.
Nhưng không phải chỉ có lòng khiêm nhượng. Một tính các khác của sự thánh thiện linh mục mà ông Nietzsche, triết gia nghịch mạng nhất đối với Kitô-giáo đã nêu lên: Chúng ta nhớ câu nói của ông: “Làm sao chúng tôi có thể tin những sứ giả của ơn cứu rỗi, ngỏ lời với tôi trong vẻ mặt âu sầu phiền não? Trước hết phải tỏ ra được cứu thoát do lời cứu rỗi mà họ muốn loan báo cho người khác!”
Và đây chính là những gì chúng ta phải trưng ra như một bằng chứng cho thế giới: lời cứu rỗi ấy phải cứu rỗi chúng ta trước, nếu chúng ta tỏ ra băn khoăn và bối rối, nếu chúng ta không có sự bình an trong tâm hồn và sự tự do trong tâm trí, nếu chúng ta không biết đến sự đơn sơ của cuộc sống, nếu chúng ta không sống trước sự hiện diện của Chúa trong một niềm tin trong sáng, Lời Chúa chưa cứu thoát chúng ta. Vậy làm sao chúng ta có thể thuyết phục kẻ khác rằng Lời Chúa có thể cứu họ khỏi những âu lo, sợ sệt và tội lỗi của họ? Niềm vui của sứ giả! Trong một tác phẩm về các nhà thần bí của nhà giáo phụ học lừng danh, ông Hausher, ông đã quả quyết rằng chính niềm vui của những kitô-hữu đầu tiên đã phá đổ sự chống đối của thế giới ngoại đạo đối với sứ điệp Tin Mừng. Một niềm vui vọt lên từ con tim. Đức tin kitô-giáo được tỏ hiện như một sức mạnh có thể vượt thắng nỗi tuyệt vọng của thế giới thời bấy giờ. Con người thời ấy tìm kiếm một các vô vọng một lối thoát để quên đi nỗi lo âu, sự trống trải của đời họ. Sự chết luôn ám ảnh họ. Con người hôm nay cũng ở trong tình trạng tương tự như thế. Thế giới đã mất đi niềm vui. Hình như không còn một lối thoát nào, không một cuộc giải phóng nào để hy vọng sau cuộc đời này. Đi lên cung trăng có nghĩa lý gì? Có lẽ chỉ là một lý do tạm bợ để quên đi sự đốn mạt của con người.
Nếu chúng ta có thể mang lại niềm vui cho thế giới! Nếu chúng ta có thể nói với thế giới rằng: “Tôi đã thấy Ngài, tôi loan báo cho anh em Đấng mà tôi đã thấy tận mắt. Đó chính là Thiên Chúa, là Tình Yêu, là Niềm Vui, là Sự Sống vĩnh cửu. Sự sống vĩnh cửu là hôm nay; chúng ta hãy chiếm lấy nó ngay từ bây giờ và chứng minh bằng niềm vui thanh thoát của chúng ta. Và đó là điều mà Lời Chúa đang mong đợi nơi chúng ta để được loan báo và được chấp nhận: chớ gì chúng ta là thánh, nghĩa là những người được “cứu thoát”, những người mà Lời Chúa đã giải phóng rồi. Lúc ấy, việc rao giảng của chúng ta tìm lại được sức mạnh và sự khả tín của nó.
09. Lắng nghe Lời Chúa
Chúng ta chỉ có thể nói với Chúa được gì khác ngoài những gì chúng ta đã nghe được? Trước khi “trở nên Lời”, chúng ta phải tiếp nhận Lời ấy trong ta. Đời sống kitô-hữu trên trần gian này có thể được xem như đời sống của một đệ tử. Tin Mừng là thầy. Và các Tông đồ đã là môn đệ.
“Môn đệ không hơn thầy. Môn đệ hoàn hảo như thầy” (Lc 6,40). Môn đệ sẽ không bao giờ hơn thầy, vì thế phải luôn luôn sống trong một sự lệ thuộc khiêm nhường và đầy đặn đối với Thầy. Thánh Gioan, trong Tin Mừng, đã cho đó là tính cách đặc thù của đời sống kitô-hữu. Những sấm ngôn loan báo thời đại thiên sai được thực hiện chính khi con người nhận Chúa làm thầy mình. Sống trong một vâng phục khiêm nhường đối với Thầy Chí Thánh, đó là tất cả cuộc sống kitô-hữu. Điều ấy xác thực đến mức độ thánh Irênê (thế kỷ II) đã công nhận rằng cuộc sống trên trời vẫn là một trường học. Chúng ta vẫn là học trò và Chúa vẫn là Thầy ta.
Chúng ta có thể chấp nhận ý kiến của thánh Irênê không? Tôi nghĩ rằng đúng. Nhiều nhà thần học hôm nay cũng theo chiều hướng đó, nhưng riêng tôi, tôi chưa dám theo họ. Nhưng ý kiến của thánh Irênê rất đúng. Con Thiên Chúa vẫn được Chúa Cha sinh ra và lãnh nhận mãi luôn những gì làm cho Ngài thành Lời. Vậy con người, một khi ở thiên đàng, sống nếp sống của Chúa khi Chúa Cha đời đời vẫn sinh ra Chúa Con trong họ, và khi họ mãi mãi chấp nhận Lời Ngài. Không bao giờ con người có thể trở thành nguyên lý hay nguồn cội, và dù ở thiên đàng, họ vẫn sống bởi Chúa mà thôi.
Tất cả đời sống kitô-hữu chỉ có một việc là tiếp nhận Lời Chúa, cưu mang Lời ấy trong tâm hồn và sinh ra Lời ấy trong hành động của chúng ta. Đó chính là giáo thuyết của một thánh tiến sĩ hết sức rõ ràng và quân bình là thánh Tôma Aquinô.
Sống nếp sống kitô-hữu là tiếp nhận Lời Chúa và Lời ấy như một giống tốt, nẩy mầm trong tâm hồn con người, sống nhờ thịt máu con người đến nỗi mặc lấy và bao gồm tất cả con người. Chính Chúa Kitô trở nên sự sống của con người. Ngài được cưu mang trong thâm cung của đời sống thiêng liêng. Ngài được sinh ra trong việc làm và trong thừa tác vụ.
Và chính như thế, chúng ta phải sống đời sống của chúng ta bằng cách lắng nghe Chúa. Nhưng làm sao Chúa nói với chúng ta được?
Câu hỏi này cũng quan trọng lắm. Nếu mối liên hệ đầu tiên của chúng ta với Chúa giống như liên hệ của Đức Mẹ khi Ngài chấp nhận Lời Chúa, thì khuôn mẫu của đời sống thiêng liêng của chúng ta là Đức Maria. Chúa Kitô là nguyên nhân mô phạm của đời sống thiêng liêng, nhưng Ngài không là một thụ tạo. Đức Maria là thụ tạo duy nhất đã thực hiện một cách tuyệt hảo trong sự thánh thiện, ơn gọi của Kitô-hữu. Như Đức Mẹ, chúng ta hãy luôn luôn sẵn sàng đối với Lời Chúa. Tất cả đời sống kitô-hữu, đời sống linh mục, trước tiên, là tiếp nhận Lời Chúa.
Nhưng Chúa nói với chúng ta thế nào? Chúa Cha ban Chúa Con cho chúng ta. Ngài sinh ra Chúa Con trong lòng chúng ta trong một hành động trao ban liên lỉ và vĩnh cửu, như Chúa là vĩnh cửu, và không trừu lại. Như thế, mãi mãi Chúa vẫn liên hệ với chúng ta. Ngài và chúng ta không thể rời nhau được nữa. Silêsius, một nhà thần học người Đức vào thế kỷ XVII đã nói: “Không những con người không thể không có Chúa, mà Chúa cũng không thể không có con người”. Quả vậy, Chúa không thể rời xa nhân loại mà Ngài đã đảm nhận trong việc Nhập Thể rồi, vì huyền nhiệm ấy là vĩnh cửu. Nhưng còn hơn thế nữa, vì Ngôi Lời cũng không thể rứt rời ra khỏi nhân loại vì nhân loại đã trở thành Nhiệm Thể của Ngài rồi. Giáo Hội với Chúa Kitô là một. Chúa Kitô ngày nay đã được vinh quang rồi, Ngài đã tách rời khỏi Giáo Hội rồi chăng? Giáo Hội là một thân thể với Ngài. Khi chúng ta là một phần tử sống động của Giáo Hội, chúng ta đã được sống với Ngài trong vinh quang rồi, Chúa Cha nới rộng liên hệ của Ngài với chúng ta trong Chúa Con. Và Chúa Con sống với chúng ta, vì chúng ta là “một” với Ngài, mối liên hệ của Ngài với Chúa Cha. Chúng ta là một Chúa Kitô duy nhất trong Chúa Giêsu Kitô.
Chắc chắn, bản tính nhân loại vẫn phân biệt với bản tính Thiên Chúa, và những con người được tạo nên vẫn phân biệt đối với Con Người Bất Thụ Tạo của Ngôi Lời. Nhưng sự hiệp nhất của Chúa Kitô không vì thế mà bị tổn thương. Chân phước Ruysbroech đã nói: “Trong hành động mà Chúa Cha sinh ra Chúa Con là Ngôi Lời, Ngài cũng sinh ra linh hồn được hiệp nhất như thế”. Và như Chúa Cha thông ban mình hoàn toàn cho Chúa Con, cũng thế, Người sẽ ban mình Người cho chúng ta khi Ngôi Lời bao gồm chúng ta trong sự hiệp nhất của thân thể Ngài. Chúa Cha sinh ra Chúa Con trong ta và như thế, Con Thiên Chúa trở thành con người.
Huyền nhiệm ấy cao cả thật và đề cập đến là một nguy hiểm. Thiên Chúa đã ban Con của Người cho chúng ta, và Người chỉ có thể thông ban chính mình cho chúng ta nhờ việc thông ban Ngôi Lời mà thôi: ân huệ Người ban cho chúng ta là chính Người và ân huệ ấy chỉ được thực hiện bằng những nhiệm xuất thần linh, được nối dài mà thôi. Chính thánh Tôma đã giải thích như thế. Vậy, nếu Chúa muốn thông ban mình cho chúng ta, hồng ân ấy trở nên thực tại trong việc nhập thể của Ngôi Lời: huyền nhiệm kitô-giáo được thực hiện trong việc trao ban Người Con duy nhất. “Này đây một trẻ thơ đã sinh ra cho chúng ta. Này đây, một Người Con đã được ban cho chúng ta”. Thư gởi ông Diognèt, ở thế kỷ thứ II cũng nói ý như vậy; và thánh truyền kitô-giáo từ xưa cho đến don Marmion cũng vậy: đời sống kitô-hữu sinh Ngôi Lời trong tâm hồn. Chúng ta phải làm như Đức Mẹ để những gì đã được thực hiện nơi Ngài cũng được thực hiện nơi ta. Chắc chắn là với một phương cách khác, vì mầu nhiệm nhập thể không thể tái hiện lại trong ta nữa, dẫu vậy mầu nhiệm ấy sẽ tái hiện một cách nào đó sự hiện diện của Ngài: sẽ không có sự tái hiện, nhưng mầu nhiệm ấy sẽ được nối tiếp và lan rộng ra.
Nhưng tất cả những việc ấy có ý nghĩa gì? Chúng ta phải luôn luôn rộng mở, sẵn sàng đón tiếp Lời Chúa, luôn luôn sẵn sàng lắng nghe: “Này là tôi tớ Chúa: chớ gì lời Chúa được thể hiện như ý Ngài”. (Lc 1, 38). Đời sống nội tâm là sẵn sàng, là đón nhận. Thực ra, chúng ta sống trong thời gian. Cường độ của mối liên hệ của ta với Chúa không thể giữ một mực nhất định được, và chúng ta không thể luôn luôn chú ý được. Nhưng Chúa là Đấng vĩnh cửu, Ngài có thể thông ban chính mình mãi cho chúng ta trong một hoạt động luôn luôn tồn tại qua thời gian. Chúng ta có thể đón nhận Ngài bất cứ lúc nào. Tham vọng cao cả nhất có lẽ là có thể chấp nhận Chúa là Đấng đang nói và thông ban chính mình mỗi lúc. Đối với linh hồn không có lúc nào là vô ích cả, chỉ trừ những lúc chúng ta không sống đức tin và không mở rộng cho tình yêu mà thôi.
Chúa gọi chúng ta vào một công việc quá lớn lao. Sống trong trạng thái luôn luôn chú ý đến Lời vĩnh cửu của Chúa. Lời ấy là chính Chúa, Đấng muốn thông ban mình cho chúng ta, muốn sống trong ta và nhờ xương tuỷ ta vì Lời ấy phải nhập thể một cách nào đó vào mỗi người chúng ta.
Chúa Kitô phải sống trong chúng ta. Chúng ta phải luôn luôn lắng nghe Lời Chúa. Đó là nhiệm vụ tiên quyết của chúng ta vì sứ mệnh tiên tri Chúa trao phó. Làm sao chúng ta có thể thông truyền cho người khác tiếng nói mà chúng ta không đón nhận? Chúng ta có cách nào chuyển đạt sứ điệp nếu tâm hồn chúng ta không đón nhận và biến hoá sứ điệp ấy trong con người chúng ta? Muốn sống luôn luôn chú ý đến Lời Chúa một cách khiêm tốn và liên lỉ, cần phải có đức tin mạnh mẽ biết bao! Càng lớn tuổi tôi càng thấy cuộc đời kitô-hữu rất giản dị. Chỉ cần đức tin thôi. Nhưng bao la biết bao! Càng lớn tuổi tôi càng thấy rằng đức tin không những là một huyền nhiệm mà còn là một phép lạ. Và là phép lạ quan trọng nhất. Tôi không thôi ngỡ ngàng khi nghĩ rằng tôi có thể tin Chúa, có thể tin rằng, một người đã đến trong trần gian và người ấy là Con Một Thiên Chúa, tin rằng Thiên Chúa yêu con người và muốn tự hiến cho con người. Và sự ngỡ ngàng của tôi càng tăng thêm khi tôi tin rằng chúng ta được Chúa Thánh Thần chiếm hữu, chúng ta là dụng cụ của Thiên Chúa Toàn Năng Sáng Tạo, dụng cụ của Tình Yêu bao la và cứu thoát.
Nếu có một tỷ lệ nào giữa con người và Thiên Chúa, thì chỉ có đức tin mới thiết lập nên được. Thực sự, tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi nơi con người, thì không là gì cả sánh với đức tin. Nhiệm vụ bám sát vào những gì Thiên Chúa đã mạc khải, đó là nhiệm vụ quan yếu nhất của con người, vì Chúa đòi hỏi con người một dung tích có thể chứa đựng Ngài nguyên vẹn, một dung tích vô biên.
Ở đây không phải là chấp nhận một giáo thuyết về Chúa: khi tự mạc khải, Thiên Chúa tự ban mình và Ngài muốn được chấp nhận với chính bản tính của Ngài. Như thế, trong con người, đức tin là một cách hiểu biết vừa thiêng liêng vừa đồng hoá mọi sự.
Khi tự mạc khải, Thiên Chúa đã thông ban chính mình cho tôi. Và vì thế, việc chiêm ngưỡng Chúa trên thiên đàng là chiếm hữu Chúa mãi mãi. Dưới trần gian này, việc mạc khải chưa phải là thấy Chúa, cũng chưa là chiếm hữu Chúa trọn vẹn. Nhưng nhờ tiến trình của đức tin, con người đồng hoá với Chúa. Thiên Chúa chỉ tự mạc khải khi Ngài trở nên như một lề luật của sự sống. “Ngươi phải trở nên Đấng ấy”, vì đó chính là điều Ngài ban cho ta và buộc ta phải thực hiện: trở nên những gì Ngài mạc khải, đúng hơn: trở nên Đấng đang tự mạc khải.
Như thế, đức tin bao gồm một cái gì thật vĩ đại.
Chúng ta nghèo hèn quá! Nhưng chúng ta phải tin những điều lớn lao, chúng ta phải đón nhận Thiên Chúa. Chúa không tự mãn trong sự cao cả của Ngài đâu, làm như Ngài cần đến sự khen ngợi của chúng ta. Ngài tự mạc khải, chính là để thông ban mình cho chúng ta.
Lắng nghe Lời Chúa là nghĩa vụ đầu tiên của chúng ta và điều đó đòi buộc chúng ta đón nhận Ngài trong tâm hồn chúng ta. Khi chúng ta lắng nghe tiếng Ngài, Ngài ban cho chúng ta khả năng đón nhận Ngài. Lời Chúa tức là chính Chúa ban mình cho chúng ta; nếu tôi lắng nghe Ngài, Ngài trở nên sự giàu có phong phú của chúng ta. Nếu Lời Chúa phải nhập thể trong tôi, thì chính tôi phải trở nên Chúa một cách nào đó, trở nên Chúa nhờ sự tham gia bằng tình yêu, như thánh Gioan Thánh Giá nói, hay bằng ân sủng như thánh Maxime le Confesseur dạy. Đúng thế, ơn gọi của kitô-hữu là trở nên Chúa. Chúng ta không phải là Chúa, chúng ta phải trở nên Chúa. Thiên Chúa tự mạc khải là để thông ban chính mình khi chúng ta chiếm hữu Ngài. Nhưng làm sao chiếm hữu Chúa? bằng cách thu gọn Ngài theo kích thước nhân loại hay sao? Chúng ta chỉ có thể chiếm hữu Ngài khi chúng ta đồng hoá với Ngài. Tin tưởng rằng mình có thể chiếm hữu Chúa mà không “trở nên” Chúa là ấu trĩ.
Lắng nghe Lời Chúa, chúng tôi đã nói là phải luôn luôn lắng nghe. Vậy phải luôn luôn tĩnh tâm. Tôi tưởng rằng chúng ta không thể sống đời sống kitô-hữu mà không trầm tĩnh. Các đấng bậc thầy trong đời sống đạo đức vẫn dạy: “Cuộc sống kitô-hữu không thể có được nếu không có sự thinh lặng”. Không có sự thinh lặng trong tâm hồn, không thể lắng nghe Lời Chúa được. Đây là một hiện diện của Tình Yêu muốn thông ban chính mình, đang chờ đợi nơi con người một sự sẵn sàng luôn luôn mới, một đức tin sống động. Tôi không ở trước một số thính giả ở đây, tôi đang ở trước mặt Chúa. Đối với loài người, tỏ ra bất kính còn có thể tha thứ, đối với Thiên Chúa, chúng ta sẽ lãnh lấy án phạt, nếu chúng ta thiếu cởi mở, thiếu sự sẵn sàng và khiêm tốn.
Đó là nhiệm vụ của mỗi người chúng ta, vì chúng ta không thể luôn luôn có một đức tin sống động để rộng mở đón nhận Thiên Chúa là Đấng vô biên đang thông ban mình cho chúng ta, ít ra, chúng ta phải thỉnh thoảng dùng những phương tiện có thể giúp chúng ta hồi tâm và lắng nghe Chúa, và những phương tiện ấy giúp chúng ta đối chiếu những tiếng nói âm thầm trong tâm hồn với Lời Chúa do Giáo Hội lặp đi lặp lại cho con cái mình.
Phải hiểu thế nào? “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng sống bằng tất cả những lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4). Lời Chúa là lương thực của tâm hồn, là của ăn của đời sống kitô-hữu mà chúng ta nhận lãnh nơi Giáo Hội. Ai không luôn luôn tiếp xúc với Lời Chúa, có thể bị chết đói. Cựu Ước và Tân Ước chính là Lời Chúa mà Giáo Hội luôn luôn ban bố trong Phụng Vụ. Đời sống nội tâm của kitô-hữu, nếu không được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, dần dà sẽ kiệt sức. Đừng nói rằng chúng ta không cảm thấy cần thiết. Khi chúng ta không còn lương thực nữa, là lúc chúng ta sắp chết. Đời sống thiêng liêng cũng vậy. Nếu chúng ta không cảm thấy cần suy nguyện, nếu chúng ta không cảm thấy cần nuôi mình bằng Lời Chúa nữa, đó là dấu hiệu chúng ta đang đau và sắp chết rồi. Lòng yêu thích suy ngắm đã biến dần trong Giáo hội Công giáo rồi, và thật là một điều đáng buồn. Đó là một triệu chứng nguy hại trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta. Không những lời cầu nguyện cá nhân mà cả đến việc tiếp xúc thân mật với Lời Chúa cũng bị bỏ quên. Cuộc sống của chúng ta không thể không cần đến việc suy gẫm Lời Chúa, lectio divina. Công Đồng đã có nhiều từ ngữ rất xác đáng về vấn đề này.
Nếu chúng ta không đọc Kinh Thánh “trong chính Thánh Thần” đã linh ứng thì Thánh Kinh trở thành một tài liệu khảo cổ, một tài liệu tôn giáo, một chứng từ quí báu của lịch sử, một bản văn hay, có lẽ là hay nhất từ thời thượng cổ để lại cho chúng ta, nhưng không phải là Lời Chúa. Đọc như thế, Kinh Thánh có thể hướng dẫn chúng ta, nuôi dưỡng tinh thần chúng ta hơn bất cứ sách nào, có thể là nguồn vui cho chúng ta nữa, nhưng nó vẫn chưa phải là Lời Chúa. Kinh Thánh chỉ trở nên Lời Chúa cho chúng ta, khi Lời ấy được Giáo Hội ban bố vì Chúa sống động trong Giáo Hội. Chúa Thánh Thần đã muốn nói với chúng ta nhờ Lời ấy, dù Lời ấy là lời của một con người và của một nền văn hoá nào đó, nhưng cần thiết là Thánh Thần sẽ giải thích cho chúng ta hôm nay. Lúc ấy, việc giải thích Kinh Thánh không thể là tiếng nói của loài người thay thế cho tiếng nói của Chúa.
Việc giải thích Lời Chúa là công việc của Chúa Thánh Thần. Theo các giáo phụ, việc giải thích Cựu Ước là chính Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể. Những gì Lời Chúa đã loan báo, chính Lời Chúa đã thực hiện. Lề Luật của Cựu Ước không phải Cựu Ước đã kiện toàn mà chính Chúa Kitô, vì chỉ có Ngài mới kiện toàn luật yêu thương tuyệt hảo. Và chính trong Chúa Kitô mà những lời hứa và những sấm ngôn của Cựu Ước được kiện toàn. Chính việc nhập thể là cách giải thích đích thực của Lời Chúa.
Điều đó cũng có giá trị đối với việc suy gẫm của chúng ta. Chúng ta chỉ hiểu được Kinh Thánh là khi chúng ta sống lời Kinh Thánh, khi Kinh Thánh trở nên nguồn sống cho chúng ta, kích thích tố làm cho chúng ta kết hiệp với Chúa sâu xa hơn, món ăn của đời sống nội tâm. Nếu Kinh Thánh chỉ là một dụng cụ về văn hoá, thì Kinh Thánh không thể là lời Chúa phán với chúng ta, nếu nó là món ăn cho sự kiêu căng của chúng ta, nó sẽ là phiến đá vấp phạm. Nếu chúng ta nghe Lời Chúa một cách đơn thành, làm sao chúng ta không trở nên những người tội lỗi đang van nài lòng tha thứ của Chúa, đang nhìn nhận sự nghèo hèn cùng cực của mình và đang cởi mở cho tình yêu? Làm sao chúng ta vẫn đứng trong nhãn quan của một giáo sư được? Ai lại cả dám dạy Chúa điều gì? Hãy khiêm nhượng lắng nghe và Lời Chúa sẽ thiết lập một mối liên hệ sống động giữa Chúa với chúng ta. Lời Chúa sẽ cứu vớt chúng ta, sẽ ban cho chúng ta sự sống. Đây sẽ không là “một” lời nói mà là “Lời nói”, là hạt giống của Chúa gieo vào tâm hồn chúng ta. Nó sẽ nảy mầm và bén rễ sâu vào thâm tâm chúng ta và lớn lên thành một cây Sự Sống đích thực.
Lời Chúa phải nhập thể cách nào đó trong chúng ta, và việc đó là việc của Chúa Thánh Thần, như những gì đã xảy ra nơi Đức Mẹ. Chắc chắn là không giống ý như thế, nhưng cũng có một sự tương ứng nào đó giữa những gì đã được thực hiện nơi Mẹ Maria và những gì phải được kiện toàn nơi ta. Việc đọc Lời Chúa phải kèm theo việc cầu khẩn và sự hiện xuống của Thánh Thần, Đấng ban mình cho linh hồn, rồi đến việc lắng nghe Chúa nói. Khi tâm hồn lắng nghe và tiếp nhận Lời Chúa, thì Lời Chúa sẽ không lên án chúng ta như những kẻ xa lạ với sự sống của Chúa và không đoán phạt chúng ta nữa, trái lại, sẽ thực hiện sự kết hiệp mật thiết giữa linh hồn với Chúa.
Là kitô-hữu nghĩa là môn đệ của Chúa Kitô, nhưng cũng là liên kết với Ngài. Nhưng vì Chúa đã nói qua Giáo Hội, chúng ta không thể nghe tiếng Ngài nếu chúng ta không là môn đệ của các giáo phụ và các thánh, nếu chúng ta không liên kết mật thiết và sống động với Thánh Truyền. Giáo Hội cũng là sự hiệp nhất trong thời gian. Khốn cho chúng ta, nếu chúng ta bẻ gãy mối dây liên lạc nối liền chúng ta với Giáo Hội ngàn đời. Tôi không thể nhìn nhận Giáo Hội hôm nay, nếu Giáo Hội đó không là Giáo Hội của Công Đồng Triđentinô, nếu không là Giáo Hội của Phanxicô và của Tôma, của Bênađô và của Augustinô. Tôi không thể làm gì với Giáo Hội mới được đầu thai ngày hôm nay. Nếu sự duy nhất bị phá đổ, thì Giáo Hội không thể còn sống. Giáo Hội sẽ không thể sống nếu không có một giải pháp để tiếp tục và trong Giáo Hội, tôi là một với các vị Tông Đồ để nên một với Chúa Kitô. Chúng ta phải sống nhờ Thánh Truyền, phải cảm thấy mình là anh em và là môn đệ không chỉ của Chúa, mà của một Thiên Chúa đã thông ban mình cho chúng ta qua các giáo phụ. Các giáo phụ ấy là những người đã nối quyền các Tông Đồ một cách liên tục, thánh Basiliô và Gioan, thánh Augustinô và Grêgôriô, thánh Bênađô và Tôma và cho đến thánh An phong, đến Newman, Rosmini, Piô XII và Đức đương kim Giáo Hoàng. Nhưng đó cũng là các thánh của thời đại và của mọi quốc gia. Đối với các Đấng ấy, tôi chỉ như một đứa trẻ tiếp nhận sự sống mà thôi. Chúng ta không thể sống yêu thương trong Giáo Hội nếu chúng ta loại trừ mối liên hệ không những huynh đệ mà còn là tử hệ nữa. Mối liên hệ ấy được sống trong sự tuỳ thuộc vào huấn quyền của Giáo Hội. Đó là giáo thuyết của thánh Clément thành Alexandria và cũng là giáo thuyết của thánh Bênađô nữa. “Hỡi con, hãy nghe những giáo thuyết của thầy con”. Chính vị tôn sư thông truyền sự sống. Chính lúc chúng ta lắng nghe tiếng nói của tôn sư mà chúng ta trở nên con cái và tiếp nhận sự sống. Tôi biết rằng Chúa Giêsu đã nói: chỉ có một Cha và một Thầy mà thôi, và chúng ta hết thảy đều là anh em. Nhưng quyền giáo huấn của Giáo Hội không thêm vào giáo huấn của Chúa Kitô, vì Ngài là một với Giáo Hội, cũng thế, tình phụ tử của Giáo Hội không thêm vào tình phụ tử của Chúa Cha, vì nó chỉ nối tiếp và thay mặt mà thôi. Mối liên hệ huynh đệ – chúng ta tất cả đều là con Chúa – không loại trừ chức vụ tư tế thừa tác, nhưng nó làm cho chức tư tế của Chúa Kitô thủ lãnh, được hiện diện và sinh động trong Giáo Hội hôm nay mà thôi.
Từ đó nảy sinh ân huệ kỳ diệu mà chúng ta có được trong Giáo Hội, là nên một với nhau, theo mẫu gương của Chúa, nhận lãnh sự sống từ người này qua người kia, nhưng hơn hết, nhận lãnh sự sống ấy từ nơi Đấng là Cha tuyệt hảo trong Giáo Hội và là Thầy với tư cách là “đại diện của Chúa Kitô”. Như thế, tất cả chúng ta là một khối duy nhất, không chỉ với Chúa mà thôi, mà với nhau, trong một liên hệ nhờ đó người này sống trong người kia, tất cả sống trong một người và mỗi người trong tất cả mọi người. Thật là một thực thể kỳ diệu! Bây giờ tôi hiểu tình yêu là gì: tôi không thể kiện toàn chức vụ linh mục của tôi, nếu tôi không cảm thấy mắc nợ mọi người: tôi chỉ có thể là kitô-hữu và là con Thiên Chúa khi tôi là con của mọi người vì chính tôi phải nhận lãnh sự sống từ nơi mọi người.
10: Sứ điệp cứu rỗi
Chúng ta đã duyệt qua chức vụ tiên tri, không phải theo lối thần học, mà theo lối tu đức. Chúng ta hãy tiến thêm một bước nữa.
Có nhiệm vụ phải rao giảng: điều đó có nghĩa gì đối với cuộc sống nội tâm của chúng ta? đối với chức linh mục của chúng ta? Chúng ta đã vạch ra hai đường lối để suy nghĩ.
Thứ nhất: Chúa đã bảo đảm sự hiện hữu của các nhiệm tích thánh thế nào để nó không lệ thuộc vào sự thánh thiện của thừa tác viên bí tích; cũng thế, Ngài đã bảo đảm tính cách bất khả ngộ của quyền giáo huấn thế nào để nó không lệ thuộc vào sự thánh thiện của các thừa tác viên của Giáo Hội – chắc chắn, không phải là sự thánh thiện của Giáo Hội. Nhưng Ngài đã không bảo đảm sự hiện hữu của Lời mà không cần đến sự thánh thiện. Chắc chắn, Lời Chúa tự nó có thể hữu hiệu, và không phải chúng ta có thể làm gì để cho nó thêm một hiệu năng nào. Nhưng chắc chắn chúng ta có thể gây nên chướng ngại cho hiệu năng ấy và làm tê liệt Lời Chúa.
Thứ hai: Nếu chúng ta có nhiệm vụ phải nói, trước hết, chúng ta phải tập lắng nghe, vì Lời mà chúng ta phải mang lấy không phải là lời của chúng ta mà là Lời Chúa. Đời sống thiêng liêng của chúng ta, đời sống linh mục của chúng ta phải là lắng nghe Lời Chúa. Chúa vẫn nói trong tâm hồn chúng ta, Ngài vẫn tiếp tục thông truyền chính mình cho chúng ta. Sứ mệnh trong thời gian của Con Thiên Chúa tương ứng với sự sinh sản đời đời của Ngôi Lời. Sứ mệnh ấy liên can đến toàn thể Giáo Hội, và linh hồn của mỗi người chúng ta. Cũng như Chúa Cha sinh ra Chúa Con trong cung lòng Ngài thế nào, Ngài cũng sinh Chúa Con trong lòng Đức Maria, trong lòng Giáo Hội và trong tâm hồn của những ai chấp nhận Lời Ngài như thế. Từ đó, chúng ta phải luôn chú ý một cách khiêm nhường và liên lỉ đến Chúa, Đấng ngỏ lời với chúng ta. Nhưng chúng ta phải chắc chắn về Lời đó. Muốn thế, chúng ta phải nhớ đến lời Chúa mà Giáo Hội đã ban bố cho chúng ta trong Kinh Thánh. Đời sống linh mục của chúng ta phải là một sự nghiền ngẫm liên lỉ Lời Chúa.
Không thể sống đời sống kitô-hữu và hơn nữa, là đời sống linh mục nếu không liên lỉ nghiền ngẫm Lời Chúa. Giáo dân, nhất là linh mục phải sống trong một sự hiệp thông với Thánh Truyền, với các giáo phụ, với các thánh tiến sĩ, với tất cả các thánh. Chúng ta cần phải sống trong một sự tuỳ thuộc khiêm tốn đối với quyền giáo huấn của Giáo Hội, và nhất là sống hiệp nhất, vâng phục và yêu thương đối với người mà chúng ta có thể nói là miệng lưỡi của toàn thể Giáo Hội.
Chúa thương ban cho chúng ta sự sống, đó là điều chắc chắn và chúng ta không thể chấp nhận rằng sự thông hiệp với Chúa là một sự thông thiệp không trực tiếp. Sự thông hiệp với Chúa đòi hỏi Mầu Nhiệm Nhập Thể. Sự thông hiệp của chúng ta với Chúa là một sự thông hiệp trong Chúa Kitô. Nếu Chúa Kitô là Đấng Trung Gian thì sự trung gian ấy là môt sự trung gian đặc biệt, vì nơi Ngài, Thiên Chúa và loài người là một. Cũng thế, sự trung gian của chức linh mục thừa tác tham dự vào sự riêng biệt ấy, và như thế, chữ trung gian xem ra hàm hồ. Cái gì chúng ta gọi là sự trung gian chỉ là dấu hiệu của sự hiệp nhất không những giữa con người với Thiên Chúa mà thôi, mà cũng là giữa tất cả mọi người với toàn thể nhân loại trong Giáo Hội, và giữa mọi người với mọi thời và mọi người, vì Chúa Kitô chỉ là một. Đó chính là sự trung gian của Giáo Hội. Giáo Hội không xen giữa con người với thiên Chúa, nhưng Giáo Hội cấu thành sự hiệp nhất nhiệm mầu giữa con người với Thiên Chúa trong Đức Kitô. Chúa Kitô chỉ sống trong chúng ta khi chúng ta thuộc về Giáo Hội là Nhiệm Thể của Ngài. Như thế, sự hiệp nhất của chúng ta với Thiên Chúa trong Chúa Kitô đòi hỏi sự hiệp nhất của mỗi người chúng ta với toàn thể Giáo Hội, và không những với Giáo Hội hôm nay mà cả với Giáo Hội của quá khứ và tương lai, vì Giáo Hội chỉ là một.
Chúng tôi muốn đề cập ở đây đến việc rao giảng. Những văn kiện Công Đồng như Về chức vụ và đời sống linh mục và Chức vụ Giám Mục mang nhiều ý nghĩa. Chúng ta hãy rút ra những gì cần thiết để suy nghĩ về vấn đề chúng ta đang đề cập đến.
Ý tưởng thứ nhất hoàn toàn là Tin Mừng. Thường người ta dễ quên tính cách bi thảm của đời sống kitô-hữu, sự nghiêm trọng của đời sống và sự dấn thân của kitô-hữu.
“Ai tin và được thanh tẩy sẽ được cứu rỗi; ai không tin thì đã bị kết án rồi” (Mc16,16). Sắc lệnh về chức vụ và đời sống linh mục đã lặp lại lời ấy. Có nhiều người muốn đưa tất cả mọi người vào thiên đàng, bất chấp mọi sự. Điều đó, Chúa Kitô không nói và Tin Mừng cũng không ghi lại. Sự hư mất là một điều có thể xảy ra trong thực tế và không thể loại trừ ra khỏi giáo huấn kitô-giáo và đó chính là yếu tố đem lại cho việc rao giảng mãnh lực và sự cần thiết của nó. Hoả ngục có thật.
Nếu đức tin phát xuất từ những gì đã nghe, ex auditu, thì sự cứu rỗi của thế giới tuỳ thuộc vào việc rao giảng kitô-giáo: “các linh mục mắc nợ mọi người”. Đó là ý tưởng thứ hai. Nếu đức tin phát xuất từ việc rao giảng, thì chúng ta có nhiệm vụ phải lo cho toàn thể thế giới, chúng ta lãnh trách nhiệm về phần rỗi của mọi người. Tất cả, chắc chắn đó là trách nhiệm của chức tư tế nói chung, nhưng mỗi linh mục đều liên lụy trong vấn đề đó. Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta lo lắng cho phần rỗi của mọi người. Đó là điều trước tiên sắc lệnh về chức vụ và đời sống linh mục đã dạy.
Và đây là điều trước tiên chúng ta phải suy nghĩ. Nếu Lời Chúa Giêsu còn có giá trị đối với chúng ta, nếu những lời ấy vẫn còn đúng với hôm nay, thì trong hai việc: một là ai không tin và từ chối Tin Mừng sẽ bị luận phạt hay là chính chúng ta phải bị luận phạt vì không rao giảng Tin Mừng. Không có lối nào khác. Chúa đạt đến mọi người trên thế giới bằng cách nào, tôi không thể biết. Điều đó thuộc lãnh vực huyền nhiệm và chúng ta không thể kiểm nhận kết quả hay hiệu năng của công việc chúng ta làm. Nhưng một điều chúng ta có thể chắc chắn: sứ điệp cứu rỗi phải đạt đến mọi người nhờ việc rao giảng của chúng ta. Chúng ta không thể biết làm sao được như thế, nhưng chúng ta biết rằng chức linh mục của chúng ta có mãnh lực đó và có thể đạt đến toàn thể nhân loại, vì nhân loại được trao phó cho chúng ta. Nếu vì lỗi của chúng ta, vì chúng ta thiếu yêu thương, thiếu nhiệt thành, thiếu hy sinh, việc ấy không đạt được kết quả thì không phải những kẻ khác sẽ bị luận phạt, mà chính chúng ta sẽ bị luận phạt. Nếu ngược lại, biết được sứ điệp Tin Mừng mà vì ngoan cố, họ từ chối, lúc ấy, chính họ mới bị luận phạt.
Chúng ta không thể nói gì khác nữa. Đó là Tin Mừng mà chúng ta phải loan báo và chúng ta không có quyền thay đổi để làm vui lòng người này hay người khác.
Đó chính là ý muốn của Chúa, và ý muốn của Chúa vẫn còn đó, và trách nhiệm của chúng ta thật đáng sợ! Chúa đã muốn cần đến con người. Ngài có thể không cần đến chúng ta, nhưng Ngài đã muốn cần đến chúng ta và nếu không có chúng ta, công việc của Ngài sẽ không thành tựu. Ngài chỉ kiện toàn công việc của Ngài khi chúng ta dấn thân một cách thành thật, mặc dù chúng ta thấy rằng công việc của chúng ta không mang lại kết quả nào. Công trình của Chúa Giêsu đã xem ra như thất bại, nhưng thật ra, sự thất bại bên ngoài ấy đã cứu vớt tất cả nhân loại.
Chúng ta không biết sứ mệnh của chúng ta sẽ đi đến đâu và sẽ thành tựu cách nào, nhưng phần rỗi của nhân loại tuỳ thuộc vào chúng ta. Sự tuyển trạch của Chúa, sứ mệnh mà Chúa đã giao phó cho Giáo Hội và cho chúng ta nhờ Giáo Hội, không phải là một trò đùa. Con người chỉ được cứu rỗi trong Giáo Hội mà thôi. Chân lý không bao giờ biến dịch. Làm sao người ta có thể thuộc về Giáo Hội? Đó là huyền nhiệm của Chúa. Nhưng họ phải là thành phần của Giáo Hội, đó là một khẩn thiết dụng cụ cho mọi người. Mọi người phải là thành phần của Nhiệm Thể Chúa Kitô vì chỉ có Ngài mới vào sâu trong cung lòng của Chúa Cha. Sự cứu rỗi chính là sự sống thần linh. Nhân loại đi vào trong Thiên Chúa vì Con Chúa đã đảm nhận tất cả mọi người trong Nhiệm Thể của Ngài.
Huyền nhiệm của sự cứu rỗi con người chính là huyền nhiệm của việc Chúa Giêsu lên trời, huyền nhiệm nhờ đó mà bản tính nhân loại thánh thiện của Ngôi Lời đi vào cung lòng Chúa Cha và ngự bên hữu Ngài. Các giáo phụ dạy: việc thăng thiên là huyền nhiệm nhờ đó, Chúa Giêsu thành Nazareth, với tất cả nhân loại Ngài kéo theo Ngài, lên trên các thiên thần, đến ngai toà Chúa Cha. Sự cứu rỗi con người không là gì khác.
Chúng ta có ý thức tầm quan trọng của điều ấy không? Chúng ta có ý thức tầm quan trọng của sứ mệnh chúng ta không? Tôi xin mạn phép khơi lại một kỷ niệm riêng. Khi tôi mới lên tám, tôi bị rung động cả tâm hồn vì biến cố này: Đức Giáo Hoàng Piô XI, mới được tấn phong độ vài tháng, đã giảng trong lễ Hiện Xuống năm 1922 những lời này của tiên tri Isaia: “Hãy la to lên không ngừng!” (Is 58,1). Tất cả nhân loại đã được trao phó cho Ngài, Ngài phải mang ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người. Câu nói ấy đã in sâu vào đời tôi và có lẽ nó đã là yếu tố làm chín muồi ơn gọi của tôi.
Còn chúng ta, làm sao chúng ta có thể ngủ yên được? Chúng ta có thực sự là kitô-hữu không? Chúng ta có thực sự là linh mục không? Đứng trước sự hư mất của bao tâm hồn, làm sao chúng ta ngủ ngon, ăn uống? Hãy nhớ đến Cha thánh Vianney. Tôi tin có hoả ngục, và tôi tin như thế cho tôi trước hết vì Chúa đã giao cho tôi một trách nhiệm làm tôi kinh hãi. Những người không biết gì về Chúa thì quá nhiều và tôi không biết làm sao cho họ nghe được lời Chúa. Chỉ nhờ vào lòng tin cậy Chúa mà tôi dám đảm nhận sứ mệnh này và tiếp tục bước tới. Tôi phó thác cho Chúa, Ngài biết rõ sự nghèo hèn của tôi và có lẽ Ngài chỉ đòi hỏi nơi tôi sự đau khổ vì thấy mình bất lực mà thôi. Tôi tin có hoả ngục. Hơn nữa, tôi không thể tin có thiên đàng nếu không có hoả ngục. Thực vậy, tất cả đều là ân huệ. Tất cả đều là yêu thương, tình thương của Chúa vô thường và vô biên. Nhưng vì chính thế, tình yêu ban cho người yêu một giá trị vô cùng, giá trị của chính tình yêu. Con người là “tất cả” đối với Chúa. Nếu hành động của tôi không có giá trị gì đối với Ngài, nếu Ngài hoàn toàn dửng dưng đối với những gì tôi làm, thì tôi không thể tin vào tình yêu của Ngài. Chính tình yêu của Chúa đã ban cho đời sống con một tầm mức nghiêm trọng khôn sánh, một sự cao cả đến độ bi thương. Con người có giá trị đối với Chúa. Những hành động của con người cũng có giá trị, đời sống tôi, đối với Ngài, là một giá trị bao la. Và riêng tôi, tôi có thể chẳng những cứu lấy tôi mà còn có thể cứu lấy kẻ khác nếu tôi sống chức vụ linh mục của tôi.
Thiên Chúa tin cậy chúng ta biết chừng nào! Linh hồn người ta đã là giá máu của Ngài, và Ngài đã trao phó họ trong tay ta. Làm sao chúng ta quên được lời Chúa nói qua miệng tiên tri Êdêkien: “Hỡi con người, Ta đã đặt ngươi làm tuần canh trên nhà Itraen. […] Nếu Ta phán với kẻ vô đạo: “Đã hẳn ngươi phải chết!” mà ngươi lại không cảnh giác, không nói lên để cảnh giác kẻ vô đạo bỏ đàng dữ để cứu sống nó, nó sẽ phải chết vì tội của nó, nhưng Ta sẽ đòi máu nó nơi tay ngươi”. (Ed 3,17-18) Có lẽ người vô đạo không chết mà chính chúng ta sẽ hư mất. Chúng ta không chỉ cứu vớt mình được khi chúng ta đã thi hành sứ mệnh của chúng ta cũng là sứ mệnh của Chúa Kitô và chúng ta phải trả một giá như Chúa Kitô. Một sự rao giảng ràng buộc chúng ta đến chết, vì con người chỉ được cứu rỗi nếu họ tin “nhưng làm sao họ có thể tin được Đấng mà không bao giờ nghe nói tới?” (Rm10,14). Không phải là yêu thương họ một cách nào đó, nhưng là mang đến cho họ sứ điệp cứu rỗi. Một cách nào đó con người nhận lấy Chúa từ nơi chúng ta.
Làm sao tiếng nói của chúng ta đạt tới mọi người được? Chúng ta mắc nợ mọi người. Và nếu chúng ta bất lực, Lời Chúa không bất lực đâu! Khi chúng ta nói rằng, chúng ta đã làm hết khả năng của mình rồi lúc ấy chúng ta có thể chắc chắn rằng Chúa cũng làm hết khả năng của Ngài: lời nói nghèo nàn của chúng ta đã mở cửa cho quyền năng vô biên của Chúa. Vì thế mà tôi tự nói và nói với anh em: chớ gì sự ý thức về sự yếu hèn của mình không làm hại cho ý nghĩa của trách nhiệm chúng ta. Lắm khi vì nản chí trước sự bất lực không làm tất cả được, chúng ta đã cuốn buồm. Chúng ta chỉ làm đủ những gì có thể làm yên lòng chúng ta thôi, và chúng ta đã bằng lòng cam chịu thất bại. Sự nản chí ấy là một sự thiếu tin tưởng vào sứ mệnh của chúng ta, và là một sự thiếu thốn tình yêu.
Chúng ta đừng mong thành công. Hiệu năng trong lịch sử Giáo Hội không là dấu chứng của hiệu năng của Lời Chúa, vì Lời Chúa chỉ hoạt động trong tâm hồn con người. Dù kết quả của việc chúng ta làm, của bao nhiêu đau khổ của chúng ta có chán nản mấy đi nữa, chúng ta phải tin rằng, ngay cả hôm nay, thế giới vẫn được trao phó cho thừa tác vụ của chúng ta và chính nhờ chúng ta mà thế giới lãnh nhận được ơn cứu rỗi của Chúa Kitô. Chúng ta phải tin như thế và chúng ta phải làm việc luôn, đến cùng, tin vững vào Lời Chúa. Sự xác tín của chúng ta không lệ thuộc vào sự thành công trần thế mà lệ thuộc vào Lời Chúa, vì Chúa luôn trung thành. Không bao giờ nản chí, đó là điều chúng ta phải nhất quyết.
Sự nản lòng là cám dỗ ghê gớm nhất, mạnh mẽ nhất và cũng là nghiêm trọng nhất của linh mục, vì khi chúng ta nản chí, chúng ta tự rứt ra khỏi quyền năng vô biên của Chúa là Đấng đã tuyển chọn chúng ta. Lúc ấy, chúng ta chỉ còn là những con người đáng thương hại mà thôi, và như thế, chúng ta hoàn toàn bất lực. Chúng ta phản bội sứ mệnh của chúng ta, chúng ta chỉ làm thế giới tuyệt vọng mà thôi. Chúng ta phải tin tưởng. Tin vào Chúa, đó là điều Ngài đòi hỏi nơi chúng ta. Chỉ có lòng tin cậy có thể giúp chúng ta thanh thản vui tiến mà thôi.
Phải có một niềm tin anh hùng mới có thể làm linh mục hôm nay, nhưng Thiên Chúa, Đấng đã kêu gọi chúng ta, sẽ ban cho chúng ta niềm tin ấy nếu chúng ta khiêm tốn nài xin. Đó là điều giáo huấn của Công Đồng về thừa tác vụ rao giảng đã được trao phó cho chúng ta: chúng ta phải mang đến cho toàn thể nhân loại sứ điệp cứu rỗi, vì nhân loại hôm nay không biết mình đang đi về đâu. Chúng ta phải mang lại sứ điệp ấy với niềm xác tín rằng, nếu chúng ta không cảm thấy mình bị ràng buộc với mọi người, không phải những người khác sẽ bị hư mất mà chính chúng ta sẽ bị trầm luân. Đó chính là ân huệ Chúa ban cho chúng ta, và chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng, nếu hoả ngục có thật, nó có thể dành để cho chúng ta nữa.
Dù vậy, chúng ta hãy tin cậy. Nếu chúng ta tin có hoả ngục, nếu chúng ta tin rằng chúng ta cũng có thể bị luận phạt trong đó, chúng ta cũng có tin vững hơn vào tình yêu, vì tình yêu vẫn lớn lao và mãnh liệt hơn mọi sự, muốn cứu vớt chúng ta. Thiên Chúa đã tuyển chọn chúng ta làm linh mục của Ngài, và việc loan báo mà chúng ta phải làm vẫn là loan báo ơn cứu rỗi. Sự nghiêm trọng của sự dữ không thể thắng vượt mãnh lực của một tình yêu vô biên. Nhưng hy vọng vào ơn cứu rỗi là một sự tự mãn nếu nó không gồm một điều kiện tiên quyết là chúng ta phải hoàn toàn tự hiến cho thừa tác vụ đã được trao phó cho chúng ta.
11: Kích thước của tình yêu
Chúng ta hãy suy nghĩ về trách nhiệm của chúng ta trong việc rao giảng và về sự kiện này là trách nhiệm ấy đòi hỏi và thực hiện việc thánh hoá chúng ta. chính vì trách nhiệm ấy mà việc thi hành nhiệm vụ rao giảng đối với linh mục là một phương thế hữu hiệu nhất và cần thiết cho việc thánh hoá bản thân. Quả thật, nếu thực sự đức tin rất cần cho việc cứu rỗi, và nếu Chúa muốn rằng đức tin của con người tuỳ thuộc vào việc rao giảng, linh mục khi thi hành nhiệm vụ rao giảng ấy, thực hiện thừa tác vụ khẩn thiết nhất của tình yêu cứu rỗi. Sự thánh thiện chỉ là sự hoàn hảo của tình yêu, nhưng không ai có thể đem cho con người một đặc ân cao quí hơn là cộng tác với Chúa, trong tình yêu, vào việc cứu rỗi họ. Và tình yêu được hoàn hảo là nhờ sự hiện diện và sự cao cả của vật được hiến dâng.
Chắc chắn, người ta có thể xem như sự hoàn hảo của tình yêu là quá dễ nếu nó đồng hoá một cách giản dị với việc thi hành chức vụ linh mục, mặc dù chỉ sống trong một sự dấn thân tương đối nào đó, nhưng Chúa không gọi chúng ta cộng tác vào việc cứu rỗi của Ngài mà không dấn thân đến cùng. Trách nhiệm của linh mục trong việc rao giảng rất đáng sợ! Nếu linh mục ý thức được như thế và sống theo đó, thì làm sao có thể dành lại cho mình thì giờ và bản thân mình? Chúa đã muốn rằng việc cứu rỗi thế giới tuỳ thuộc một cách nào đó vào việc rao giảng. Thánh Grêgôriô thành Nadian và thánh Gioan Kim Khẩu đã ngỡ ngàng vì vấn đề đó.
Những trang mà các thánh ấy đã viết về thừa tác vụ rao giảng chứng minh một xúc động có thể đánh động chúng ta. Chúng ta phải mang Tin Mừng cho thế giới hôm nay, một thế giới đã lớn rộng ra rất nhiều và nhân loại hôm nay rất hững hờ với sứ điệp, và chúng ta lại kém tài, kém đức hơn các vị thánh ấy.
Việc tham dự vào chức tư tế của Chúa Kitô làm cho chúng ta cũng tham dự vào tử nạn của Ngài, không phải bằng việc đổ máu ra vì đạo, nhưng bằng sự đau khổ khi thấy rằng biết bao nhiêu người không biết một tí gì về Chúa hay là biết bao nhiêu người đã loại trừ Chúa, thêm vào đó, chúng ta lại thấy mình hoàn toàn bất lực, không biết làm sao rao giảng cho mọi người, cho họ nghe được lời Chúa.
Đức bác ái kitô-giáo là một sự nhiệt thành, một đam mê xâu xé chúng ta vì phần rỗi của mọi người. Thực ra, không phải tôi cho chính mình tôi. Nói rằng những người khác cần đến tôi có thể là một điều vô lý và ngây ngô, nhưng tôi không phải là kitô-hữu, nếu tôi không xác tính về đức tin, và tôi không thể là linh mục nếu tôi không cảm thấy bị thức đẩy phải thông truyền niềm xác tín ấy. Bác ái kitô-giáo không ngăn cấm chúng ta đem người khác vào đạo và tình yêu nào không mang Chúa cho người khác, thì không phải là tình yêu kitô-giáo. Và Chúa đã tự hiến cho con người. Chính trong Chúa Kitô mà Ngài đã ban tất cả mọi sự cho chúng ta (Rm 8,32).
Tại sao chúng ta có thể đau khổ khi thấy người ta nghèo đói, bệnh tật, mù chữ, bệnh hoạn và dửng dưng trước sự vô tín ngưỡng của họ hay, nếu họ đã yêu Chúa rồi, trước sự dốt nát của họ về Chúa Kitô?
Nếu thực sự, đời sống kitô-hữu là tình yêu tự bản chất, nếu sứ mệnh của linh mục là sứ mệnh tình yêu thì không có việc bác ái nào quan trọng hơn việc rao giảng. Con người có thể không cần gì cả, nhưng cần Chúa. Giáo Hội được sai đến cho mọi dân tộc, và được sai để rao giảng ơn cứu rỗi. Và Giáo Hội sống sứ mệnh ấy nhờ tất cả con cái mình, và đặc biệt hơn hết là nhờ linh mục là chúng ta. Chúng ta được sai đến với toàn thể nhân loại. Chúng ta mắc nợ mọi người và món nợ ấy là Thiên Chúa. Đức bác ái đang nung nấu tâm hồn linh mục chúng ta là đức bác ái phổ cập, không loại trừ một người nào, và vô biên vì nó ban bố chính Thiên Chúa. Cho cái gì kém hơn Chúa, mặc dù nhiều người không biết sự giàu sang của chúng ta, có thể xin chúng ta ít, là làm cho thế giới thất vọng và như thế, chính là phản bội sứ mệnh của chúng ta.
Dù vậy, nếu sứ mệnh của chúng ta là một sứ mệnh phổ cập, điều đó không có nghĩa là chỉ lo cho hết mọi người không trừ ai mà thôi, mà là lo cho con người toàn diện. Đối tượng của sứ mệnh cứu rỗi là, trước tiên, là sự phục sinh của Chúa Kitô, nhưng trong thực tế, không có một vấn đề nhân bản nào bị loại ra ngoài cả. Công Đồng đã dạy như thế và linh mục nào cũng biết điều đó cả. Những chuyến công du của Đức Giáo Hoàng sang Liên Hiệp Quốc và các nước là bằng chứng. Ai sống bác ái, người ấy phải chú ý đến tất cả những gì liên can đến con người, vì tất cả toàn thể con người phải được cứu rỗi. Nếu chúng ta muốn loại trừ một cái gì ra khỏi tình yêu của chúng ta thì chúng ta đã loại trừ một yếu tố, đúng lý ra phải thuộc về nó. Nếu thực sự sứ điệp phải loan báo sự phục sinh của Chúa Kitô, ơn cứu rỗi không phải là tách rời hồn ra khỏi xác, dù để cứu thoát nó cũng không được.
Hơn nữa, ơn cứu rỗi không chỉ nói đến con người, mà liên can cả đến toàn thể tạo thành: “trời mới đất mới” đã được hứa ban cho chúng ta. Ơn cứu rỗi sẽ không thành tựu nếu nó không khởi đầu bằng sự hoán cải tâm hồn, nhưng việc này chỉ hoàn toàn thực hiện khi nó kết thúc bằng cách đổi mới vũ trụ. Vậy tất cả mọi người đều có thể và phải là đề tài cho việc rao giảng của chúng ta, chắc chắn là phải luôn quy hướng về Chúa Kitô, là Đầu và là cùng cốt của mọi ơn cứu rỗi.
Với tính cách là linh mục, chúng ta phải can thiệp nơi đâu có con người. Chúng ta không có quyền loại trừ ai cả. Thánh Phaolô dạy: Đức bác ái có kích thước của thánh giá: nó lên cao đến Chúa và đồng thời ôm ấp tất cả nhân loại và cả tạo thành nữa.
Như thế, sống sứ mệnh của chúng ta có nghĩa là “bị đóng đinh cho thế giới”. Chính thế giới này là thập giá của chúng ta, chính ở đó, chúng ta phải chịu đóng đinh. Trong tình yêu của chúng ta, chúng ta phải hiệp nhất những thái cực: xuống sâu vào vực thẳm của đau khổ, lên cao trong niềm hy vọng đến Chúa, mở rộng vòng tay chúng ta để ôm ấp cả tạo thành.
Và trên hết, tất cả những vấn đề của con người – đời sống vật chất, đời sống đạo đức, đời sống vĩnh cửu – đều phải được chúng ta giải quyết. Chúng ta phải cảm thấy bị xé nát bởi cây thập giá đó. Chính là thế giới này, nơi chúng ta chịu đóng đinh. Không một dân tộc nào, không một người nào có thể bị gạt ra ngoài sự lo lắng của chúng ta, nếu chúng ta muốn rằng nhờ việc rao giảng của chúng ta, Thiên Chúa có thể thực sự ban cho con người niềm hy vọng vào một ơn cứu rỗi đích thực. Sứ mệnh phổ cập mà chúng ta không thể chối từ, và kinh nghiệm về sự bất lực của chúng ta sẽ đóng ấn tử đạo trên cuộc đời chúng ta. Cùng một đam mê với Chúa là Đấng muốn cứu rỗi mọi người, linh mục sống thừa tác vụ của mình khi thực hiện những đòi buộc của tình yêu Chúa, Đấng muốn đạt đến mọi người qua trung gian linh mục, bằng cách đòi buộc ngài hiến thân trọn vẹn, lúc ấy, Chúa mới thực hiện nơi ngài việc tử đạo của chính Chúa.
Vì lý do đó, thừa tác vụ rao giảng sẽ là việc phụng vụ Lời Chúa được liên kết một cách bất khả phân với việc thi hành một chức vụ linh mục đích thực. Phụng vụ lời Chúa sẽ được kiện toàn trong việc tế hiến của Chúa Kitô và đó là chính việc tế hiến của chúng ta. Chúng ta sẽ bị đóng đinh thập giá bằng việc rao giảng của chúng ta, bằng nhiệm vụ phải mang đến cho mọi người ơn cứu rỗi, bằng nỗi lo âu làm cho chúng ta không thể sống nổi khi mọi người chưa được cứu thoát. Chúng ta sẽ không ngơi nghỉ bao giờ: Đừng ngừng kêu lên! Và chúng ta sẽ cảm thấy rằng sự sống của mọi người tuỳ thuộc nơi chúng ta biết bao! Đó là lễ vật hiến tế của chúng ta. Việc rao giảng của chúng ta chuẩn bị và hoàn tất việc hiến tế của chúng ta biến chúng ta thành một lễ vật mãi mãi. Vì sứ mệnh ấy buộc chúng ta phải sống luôn luôn cho người khác, và không còn sống cho chính mình nữa, nhưng là chấp nhận và muốn cho mọi người đều có mọi quyền hành trên chúng ta. Đó là điều Công Đồng đã dạy.
Người khác có mọi quyền hành trên chúng ta và đối với họ, chúng ta có mọi nghĩa vụ. Chúng ta thuộc về mọi người, chúng ta không có quyền loại trừ ai cả: chúng ta đã trọn đời hiến thân cho Chúa rồi và Chúa chỉ sống trong chúng ta trong việc thi hành một thừa tác vụ ràng buộc chúng ta với hết mọi người mà thôi. Chúng ta chỉ có thể thông ban Chúa và chuyển đạt sứ điệp cứu rỗi khi chúng ta sống với đam mê tình yêu làm cho chúng ta tiêu tan dần mòn. Vì trong đam mê của tình yêu ấy đối với con người mà chức linh mục hiện tại hoá hy tế của Chúa Giêsu để cứu chuộc trần gian.
Thực sự, nếu chúng ta mắc nợ mọi người, trước hết là nhờ tác vụ rao giảng mà chúng ta có thể hoàn trả món nợ ấy. Chúng ta chỉ có thể thi hành chức vụ vương đế của chức linh mục đối với những người nhìn nhận quyền mục tử của chúng ta, khi họ thuộc về đàn chiên mà thôi. Đàng khác, chúng ta thi hành chức vụ tư tế, không những cho dân Chúa mà thôi, mà cho toàn thể nhân loại: việc này chỉ có thể thực hiện nhờ lời cầu nguyện và hiến tế tạ ơn. Những chức vụ ấy chỉ đạt đến tầm mức hữu hiệu phổ quát của nó là nhờ Chúa là Đấng mà chúng ta nài xin mà thôi. Trái lại, trong việc rao giảng, trên phương diện xác thực và cụ thể, đây là một sứ mệnh làm cho chúng ta liên hệ với tất cả mọi người. Trong khi cầu nguyện, chúng ta quay về với Chúa, trong việc rao giảng, lời nói của chúng ta phải đạt đến mọi người để đem lại cho họ sứ điệp cứu rỗi.
Thực sự, chúng ta không thể nào ôm choàng tất cả mọi người và sống trong đời sống tế hiến cho người khác, nếu chúng ta không kết hợp với Chúa; chúng ta cũng không thể kết hợp với Chúa nếu chúng ta không biến chúng ta thành dụng cụ để cứu vớt mọi người. Thực sự, thừa tác vụ rao giảng, khi ràng buộc chúng ta vào việc phục vụ mọi người, cũng ràng buộc chúng ta trước nhất phải sống kết hợp với Chúa. Thừa tác vụ rao giảng là việc thực thi đức bác ái, và chính đức bác ái nầy, trong tình trạng cụ thể, kiện toàn sự hiệp nhất, nhưng nhờ hy tế của chúng ta mà thôi.
Việc rao giảng của chúng ta đưa chúng ta đến một cuộc sống đặc biệt linh mục. Chính trong việc rao giảng của chúng ta mà chúng ta thực thi chức tư tế của chúng ta. Như thánh Phaolô đã dạy (Rm 16,16). Chúng ta sẽ đề cập đến việc cầu nguyện và dâng lễ, nhưng ngay bây giờ, chúng ta cũng có thể thấy rằng không có một chức vụ linh mục nào có thể tách rời ra khỏi những chức vụ khác. Những chức vụ này được quy hướng về với nhau, và không chức vụ nào được thi hành mà không kèm theo những chức vụ khác. Lời Chúa mà chúng ta lắng nghe trở nê sứ điệp của chúng ta cho mọi người và lời cầu nguyện với Chúa.
Việc lắng nghe Lời Chúa là điều kiện của việc rao giảng của chúng ta thế nào thì việc rao giảng của chúng ta cũng không tách rời với lời cầu nguyện của chúng ta thể ấy. Cũng chỉ có một nguyên lý thôi: trên bình diện đức ái, không ai phân biệt tình yêu đối với Chúa và tình yêu đối với con người. Nếu chức linh mục thừa tác tìm thấy nguyên lý của mọi hoạt động của mình nơi tình yêu Chúa, thì tức nhiên, linh mục không thể phân tách việc rao giảng với việc cầu nguyện. Linh mục là tiếng nói khuyến khích người ta, là loan báo ơn cứu rỗi, là lời cầu xin. Cũng như đức tin của mọi người tuỳ thuộc vào chức tư tế thế nào thì hiệu năng của thừa tác vụ cũng tuỳ thuộc vào lời cầu nguyện như vậy. Lời Chúa rất hữu hiệu nhưng chính việc lắng nghe Lời Chúa đó mới biến đổi con người kitô-hữu hay linh mục. Vì một khi đã trở nên Lời ấy, linh mục trở nên cộng sự của Chúa, dụng cụ của hoạt động của Ngài.
Khi con người không nghe Lời Chúa, sống trong tội lỗi của họ, họ chỉ là dụng cụ của sự chết mà thôi; và thay vì cộng tác vào việc Chúa, họ trở nên dụng cụ của sự tàn phá. Nhưng, với ơn cứu chuộc, con người được cộng tác lại với Chúa, vào quyền năng sáng tạo của Ngài, nhờ chức tư tế của Chúa Kitô. Vậy, hoạt động của con người lại trở nên hữu hiệu, nhờ việc rao giảng, Lời Chúa được chuyển đạt cho thế giới, và nhờ lời cầu nguyện, hoạt động của con người có thể nài xin mọi sự nơi Chúa. Chỉ có việc rao giảng và lời cầu nguyện mới hữu hiệu vì Chúa chỉ hứa ban hiệu năng cho hai hoạt động đó mà thôi. Đôi khi, việc thi hành chức vụ của chúng ta xem ra như vô ích và mất thì giờ! Thực ra không phải thế, vì ít ra khi thi hành nhiệm vụ linh mục, chúng ta đã vâng phục sứ mệnh của Chúa, điều đó khiến Chúa có thể hoạt động nhờ chúng ta. Dù sao chăng nữa, đó là những hoạt động xem ra it hiệu quả hơn cả, nhưng kỳ thực là những hoạt động có khả năng kiện toàn và đạt được mọi sự. “Tất cả những gì chúng con xin cùng Cha nhân danh Thầy, Ngài sẽ ban cho các con” (Ga 16,23).
12: Cầu nguyện
Trước khi đề cập đến những vấn đề khác, tôi muốn nhắn lại một vài đoạn Tân Ước xem ra nhấn mạnh đến mối dây liên lạc giữa thừa tác vụ tiên tri và chức tư tế. Nhưng trước hết, tôi muốn nhắc đến một đoạn về trách nhiệm rao giảng của chúng ta.
Chức vụ tiên tri này thiết yếu đến nỗi thánh Phaolô có thể quả quyết: Thiên Chúa không sai tôi đến để làm phép thanh tẩy mà là để rao giảng. Quả thực, sự cứu rỗi đời đời của chúng ta tuỳ thuộc vào tầm ý thức của chúng ta về trách nhiệm phổ cập của chúng ta đối với thế giới. Tìm thấy một mối dây liên lạc thiết yếu giữa thừa tác vụ của chúng ta và việc cứu rỗi thế giới, khi vai trò môi giới của Chúa Kitô được hiện tại hoá nhờ chúng ta, có thể là một sự tự cao không ai chịu được và vô lý, nhưng trái lại chính đó lại là một nhiệm vụ đòi hỏi chúng ta phải khiêm tốn và hoàn toàn tự hiến.
Nhưng chức vụ rao giảng và chức linh mục không thể tách rời. Đoạn thư của thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma về chức vụ rao giảng và việc thi hành chức vụ tư tế thừa tác, ai cũng đều biết. Sách Tân Ước rất hiếm những đoạn về chức tư tế thừa tác. Thư gửi tín hữu Do thái đề cập đến chức tư tế của Chúa Kitô và Tin Mừng Gioan cũng nói đến một cách hết sức kín đáo. Chức tư tế chung do thư của thánh Phêrô đề cập đến, nhưng tư tế thừa tác không có mấy đoạn nói đến. Đây là một và có lẽ là hay nhất trong chương 15 bức thư gửi giáo đoàn Rôma: “Bởi ơn Thiên Chúa đã ban cho tôi làm tư tế của Đức Kitô Giêsu nơi các dân ngoại mà hành lễ là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa ngõ hầu lễ vật của dân ngoại được Thiên Chúa vui lòng chiếu nhận bởi được tác thánh trong Thánh Thần” (Rm 15,16). Đối với thánh Phaolô, chức vụ rao giảng chính là việc thi hành chức vụ tư tế, nhờ đó các dân tộc sẽ được hiến dâng và thánh hiến cho Thiên Chúa. Việc rao giảng được quy hướng vào việc hiến tế, hơn thế nữa, rao giảng tức là hoàn tất chức tư tế, vì nếu việc rao giảng xây dựng Giáo Hội và sinh ra đức tin, thì con người Kitô hữu là một sự tham dự vào hiến tế của Chúa Kitô, nhờ đó con người nên một với Ngài trong một hy tế duy nhất, trong một hiến dâng duy nhất. Vì thế, chức vụ tư tế là chức vụ chính yếu của thừa tác vụ của chúng ta, dù ở trần gian này điều ấy không rõ rệt lắm.
Đoạn thư thánh Phaolô vừa trích dẫn đưa chúng ta vào vấn đề hôm nay.
Chúng ta cần nhớ rằng chức tư tế thừa tác, dù khác biệt hẳn với chức tư tế của dân Chúa, vẫn là một sự tham gia vào chức tư tế của Chúa Kitô, và như thế, là đã được bao gồm trong chức tư tế chung rồi. Chúng ta chỉ thi hành chức vụ tư tế thừa tác của chúng ta cho dân Chúa bằng cách hiện thực chức tư tế của Chúa Kitô, chúng ta cũng phải trước tiên, sống chức tư tế của dân Chúa đã. Chức tư tế thừa tác của chúng ta không tách chúng ta ra khỏi dân thánh, cũng không tách chúng ta ra khỏi dân thánh, nó không ngăn cách chúng ta khỏi giáo dân, nhưng thánh hiến chúng ta như những thừa tác viên phục vụ họ. Chúng ta sống cho họ, nhưng cũng như họ, chúng ta thông phần vào một vinh dự, một đức tin duy nhất, một niềm hy vọng, để thông phần với họ vào một gia sản. Chúng ta cũng là Kitô hữu, là con của Chúa.
Trước khi chúng ta muốn biết phải sống chức tư tế thừa tác của chúng ta thế nào, chúng ta hãy xem chúng ta có thể sống chức tư tế chung thế nào đã. Thánh Phêrô đã nói thế nào về chức tư tế chung? “Cả anh em nữa, ví thể những viên đá sống, hãy để Ngài xây cất anh em thành toà nhà thiêng liêng cho tế vụ thánh, để dâng lên lễ tế thiêng liêng rất đẹp lòng Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô” (IPr 2,5). Đời sống Kitô hữu là “một cuộc xây dựng” một dân tộc cho việc hiến tế. Theo thánh Phêrô, việc “xây dựng này” quy hướng về việc thờ phượng Chúa. Thực ra, “chức tư tế vương giả” của dân Chúa mà Chúa Kitô đã mua bằng máu của mình cũng quy hướng về việc loan truyền “quyền năng cao cả của Chúa là Đấng đã gọi chúng ta từ chốn tối tăm tới nơi ánh sáng diệu kỳ của Ngài”, nhưng công việc đầu tiên của chức tư tế của tín hữu vẫn là việc “hiến dâng lễ tế thiêng liêng, đẹp lòng Chúa, nhờ Chúa Kitô”, theo thư thứ nhất của thánh Phêrô. Việc dâng hiến là tất cả cuộc sống của Kitô hữu khi họ sống quy hướng về Chúa và không còn sống cho mình mà chỉ sống cho Chúa thôi, và sự hiến dâng này được hoàn hảo nơi việc hiến tế (xem Rm 12,1; Ep 5,1-2; 2Tm 4,6). Thư gửi tín hữu Do thái cũng ý như thế: “Nhờ Ngài, ta hãy hiến dâng Thiên Chúa lễ tế ngợi khen mọi thời, tức là hoa quả của môi miệng tuyên xưng danh Ngài”(13,15). Cũng thế, việc từ thiện và lòng quảng đại bố thí là “những lễ tế Thiên Chúa vui lòng chiếu nhận (13,16). Thánh Phêrô, thánh Phaolô, tác giả của thư gửi Do thái cũng không trực tiếp nói đến việc cầu nguyện: việc thi hành chức vụ tư tế chung được thể hiện trong hiến tế. Và tất cả cuộc sống Kitô hữu được quan niệm trong Tân Ước, như một hiến tế chỉ được dâng hiến cho Chúa mà thôi. Hiến tế trong tình yêu, trong việc hiến dâng chính mình và được kiện toàn trong sự chết. Hiến tế tuyên xưng sự cao cả của Chúa và Danh thánh Ngài. Tất cả những điều ấy đòi hỏi trước hết việc hiến dâng cho Chúa tất cả cuộc đời không thể không được gọi là cầu nguyện sao? Và vì thế, thánh Phaolô, khi mong ước rằng tất cả cuộc sống chúng ta phải được quy hướng về việc phụng thờ Chúa, đã đồng thời mong ước cuộc sống ấy trở thành việc cầu nguyện liên lỉ.
Việc cầu nguyện là cách thực thi chức tư tế chung, chuẩn bị việc thi hành chức tư tế thừa tác trong phụng vụ Thánh Thể. Chỉ khi nào chúng ta biết cầu nguyện với tính cách là Kitô hữu, chúng ta mới biết sống Thánh Lễ và kinh Nhật tụng, kinh mà chúng ta đọc với tính cách là đại diện cho Giáo Hội, để Chúa Kitô có thể cầu nguyện nhờ chúng ta. Chắc chắn, Chúa Kitô vẫn cầu nguyện qua việc cầu nguyện của tín hữu. Các tín hữu vẫn là chi thể của Ngài, tuy nhiên, trong chức tư tế thừa tác, Đức Kitô Thủ Lãnh hiện diện một cách đặc biệt và trong lời cầu nguyện của linh mục, tất cả sự sống của Nhiệm Thể được quy tụ trong đó.
Vì thế, lời cầu nguyện trong Phụng Vụ trỗi vượt mọi lời cầu nguyện khác. Cuộc chiêm niệm của thánh Têrêxa Avila hay của thánh Gioan Thánh Giá đều phải được kiện toàn trong phụng vụ là việc cầu nguyện cao cả nhất và hiệu năng nhất mà người ta có thể tìm thấy ở trần gian này, và trong đó sự sống của cả thế giới được đảm nhận.
Dù lời cầu nguyện của một tâm hồn đã đạt đến mức độ hiệp nhất với Chúa thâm sâu thế nào cũng không giá trị bằng việc cử hành Phụng Vụ Thánh Thể, nơi đó linh mục hành động “in persona Christi” (như Chúa Kitô). Những lời của linh mục là chính lời của Chúa Kitô. Ngài thực sự sử dụng bản tính nhân loại của chúng ta để hiện tại hóa việc hiến tế “của Ngài”, nơi đó, tuỳ thuộc việc cứu rỗi thế gian. Chính Chúa Kitô nói qua miệng linh mục. Chính Ngài phải sống trong linh mục vì Chúa Kitô là một. Chúa Kitô phải đầy tràn trong ta, không phải Ngài thay thế hay lấn át ta, nhưng là để đảm nhận chúng ta trong duy nhất tính của Bản Vị thần linh Ngài. Những lời nói đầy Chúa của các thánh không bao giờ hiệu năng bằng lời nói của chúng ta khi nói: “Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con. Này là chén Máu Thầy sẽ đổ ra vì các con”. Đúng thế, việc cầu nguyện phải quy hướng về kinh nguyện Thánh Thể. Ngay cả Chúa Cha cũng không thể nhận được việc hiến tế của con người nếu việc hiến dâng ấy không kết hiệp với việc hiến dâng của Chúa Kitô. Thiên Chúa chỉ nhận nơi ta chính Ngài mà thôi. Nhưng trong việc dâng hiến của Chúa Kitô, Ngài nhận chính Con Ngài làm một với chúng ta và chúng ta là một với Ngài. Và tất cả điều ấy được kiện toàn trong chính việc hiến dâng thánh lễ, nơi đó việc cầu nguyện phải quy hướng về nếu nó muốn đạt đến Chúa và muốn là lời cầu nguyện Kitô giáo. Và việc hiến dâng thánh lễ không thể được kiện toàn nếu không có linh mục chủ toạ. Chúng ta không thể cắt đứt lời cầu nguyện của tín hữu ra khỏi phụng vụ, mặc dù nó vẫn khác biệt với phụng vụ.
Chúng ta biết cầu nguyện với tính cách là Kitô hữu không? Chúng ta có sống cuộc đời này như một hiến dâng trọn vẹn và liên lỉ cho Chúa không?
Nơi việc cử hành thánh lễ và kinh nguyện phụng vụ phải là hành động thiết yếu của chức linh mục của chúng ta, là linh mục, chúng ta phải đạt đến bậc “kết hợp biến đổi” với Chúa là bậc cao nhất trong việc kết hợp thần bí rồi. Chức tư tế thừa tác đòi hỏi một sự kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô đến nỗi, muốn thi hành chức vụ này, chúng ta phải là những đấng thánh. Khi chúng ta kiện toàn những hành động của chức vụ thánh mà không là thánh, thì những hành động đó đến từ nơi chúng ta nhưng không thể là của ta. Chắc chắn Chúa biết sự yếu hèn của chúng ta, Ngài không đòi buộc chúng ta phải đạt đến bậc trọn lành mà ngay cả các đấng thánh cũng chỉ đạt được vào cuối đời mà thôi, nhưng Ngài đòi buộc chúng ta cố gắng, vì cuộc sống của chúng ta không thể là một sự dối trá được. Và chính việc thi hành chức vụ của chúng ta, nếu chúng ta sống chức vụ ấy với tinh thần trách nhiệm rõ ràng, sẽ thực hiện nơi chúng ta sự thánh thiện riêng biệt của chức tư tế, mặc dù rất chậm nhưng chắc chắn.
Đối với tôi, một linh mục nào không hướng về sự thánh hoá bản thân đã nằm trong tình trạng tội lỗi rồi. Chúng ta không thể chấp nhận rằng Chúa Kitô sử dụng chúng ta mà không tôn trọng bản tính chúng ta. Nếu Ngài đòi hỏi chúng ta những hành động đòi buộc chúng ta phải kết hiệp với Ngài, chắc chắn Ngài sẽ thực hiện sự hiệp nhất đó, nhưng Ngài mong mỏi chúng ta hiến thân mình cho ơn Ngài và trao phó tất cả mọi sự trong tay Ngài để trở nên những dụng cụ cho Ngài hoạt động. Bây giờ Ngài đã trở về trong vinh quang thiên đàng, Ngài không hoạt động một cách hữu hình ở trần gian này với bản tính nhân loại mà Ngài nhận nơi Đức Trinh Nữ vẹn tuyền nữa, nhưng Ngài đã mượn bản tính nhân loại của chúng ta để có thể tiếp tục công trình của Ngài, để trở nên hữu hình cho thế giới nhờ chúng ta.
Chúng ta hãy trở về với việc cầu nguyện. Nếu việc cầu nguyện chuẩn bị cho mỗi tín hữu càng ngày càng tham gia một cách đầy đủ hơn vào hy tế Thánh Lễ, nếu nó tìm thấy nơi tín hữu sự hoàn hảo của nó thì, đối với linh mục, nó sẽ chuẩn bị linh mục sống chức vụ tư tế của mình thế nào nữa?
Nhưng trước hết, chúng ta hãy tự hỏi xem, có thể nào cầu nguyện được không? Câu hỏi này không vô ích đâu. Thực tế, chúng ta hồ nghi về việc cầu nguyện đích thực rất nhiều và đây là một hiện tượng thường xảy ra trong thời đại chúng ta. Chính việc nghi ngờ này, dù ý thức ít nhiều, cũng làm cho việc cầu nguyện trở nên khó khăn, ngay cả đối với những kẻ có đức tin. Trong thời đại chúng ta đây, người ta cầu nguyện rất ít, và nhiều người không bao giờ cầu nguyện gì cả. Con người có thể liên lạc với Chúa không? Phải chăng việc cầu nguyện chỉ là một mặt nạ để tìm sự yên tâm mà thôi sao? Dù có định nghĩa thế nào, sự nghi ngờ vẫn còn đó. Một việc nâng tâm hồn lên tới Chúa? Nhưng không có con đường nào đưa con người đến Chúa cả. Phải chăng đặc điểm của Chúa là không ai đạt đến được? Ngài ở trong một sự siêu việt không cùng. Một câu chuyện, một liên lạc giữa Chúa và con người, giữa con người với Chúa? Nhưng con người không cần thiết gì với Chúa cả. Nếu Chúa liên hệ với tôi, Ngài chỉ còn là là mối liên hệ đó thôi: vì không có gì nơi Ngài mà không đồng hoá với chính bản tính Ngài. Và Chúa không thể là Chúa, nếu Chúa cần đến tôi. Vậy làm sao có thể cầu nguyện được?
Không có mối liên hệ nào với Chúa ngoài mối liên hệ hiệp nhất giữa các Ngôi vị Thiên Chúa với nhau. Tất cả đời sống ân sủng giả thiết rằng tạo vật đi vào Thiên Chúa một cách nhiệm mầu. Và vì thế, ơn sủng giả thiết phải có việc Nhập Thể của Ngôi Lời. Chính nhờ huyền nhiệm ấy mà nhân loại được liên hệ với Thiên Chúa. Mầu nhiệm Nhập Thể là việc đảm nhận bản tính con người, được quy hướng về Chúa Cha trong cùng một liên hệ của Chúa Con hằng sống trong bản tính nhân loại ấy. Các giáo phụ Hy lạp nhấn mạnh đến sự hiện diện mầu nhiệm nhưng hoạt động của Ngôi Lời trong toàn thể nhân loại. Thực ra, tội lỗi đã phá đổ mối liên hệ ấy và nó chỉ được thiết lập lại nhờ Mầu Nhiệm Khổ Giá mà thôi. Chính trong cái chết của Ngài mà Con Thiên Chúa làm người mang trong mình tất cả trách nhiệm của tội lỗi đã phá sự đối nghịch mà tội lỗi đã tạo nên và thiết lập lại mối liên hệ giữa nhân loại tội lỗi và Thiên Chúa. Vì thế, chúng tôi đã nói rằng trong việc cầu nguyện, con người thông phần vào chức tư tế của Chúa Kitô, vì thế, tại sao việc cầu nguyện mời gọi Kitô hữu phải thông phần càng ngày càng tích cực và ý thức vào hy tế của Chúa Kitô trong thánh lễ? Như thế, việc cầu nguyện là thi hành chức vụ tư tế chung, quy hướng Kitô hữu về hy tế của Chúa Kitô; và chức tư tế chung vẫn không rứt rời ra khỏi chức tư tế thừa tác, nhờ đó hoạt động cứu chuộc của Chúa Kitô được hiện tại hoá.
Nhưng nếu mối liên hệ với Chúa chỉ được hoàn hảo nhờ hy tế của Chúa Kitô, nó bắt đầu với việc mạc khải. Tự mình, con người không thể thiết lập một mối liên hệ cá biệt với Thiên Chúa, mặc dù tuỳ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa như Đấng tạo thành. Chính Chúa đã khởi đầu liên hệ với con người khi Ngài tự do tỏ mình ra cho con người.
Thực ra, việc mạc khải của Thiên Chúa cho con người ở trần gian này không bao giờ có thể thuần túy và không có trung gian được. Thiên Chúa tự mạc khải qua những dấu hiệu, và dấu hiệu khi tỏ hiện Chúa có thể thiết lập mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa trong đời sống tôn giáo. Như thế, mỗi khi Chúa tự mạc khải qua lời tiên tri, con người bước vào mối liên hệ với Chúa qua một lời nói, đó là lời cầu nguyện.
Nếu Chúa đã ngỏ lời với con người, tại sao con người lại không thể nói chuyện với Chúa? Nếu tiếng nói của con người có thể bày tỏ những bí nhiệm của Chúa, tại sao tiếng nói ấy lại không đạt đến Chúa? Con người đã lắng nghe Lời Chúa, giờ đây Chúa lắng nghe con người. Vực thẳm giữa Thiên Chúa sáng tạo và thụ tạo có thể ngăn cản mọi mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người và cũng thế, ngăn cản mọi việc cầu nguyện đích thực. Nhưng nếu con người không thể tự đưa mình lên tới Chúa, Chúa vẫn có thể xuống đến với con người và đã cho con người khả năng lên đến Chúa.
Việc cầu nguyện là việc có thể được, vì Chúa có thể ngỏ lời với ta. Tiếng nói ấy mà Ngài đã ngỏ lời với ta, là tiếng nói của con người nhưng đã mạc khải cho chúng ta ý định yêu thương của Ngài. Tiếng nói nhân loại ấy, đơn sơ và nghèo nàn, đã tỏ cho chúng ta biết Chúa: tại sao nó lại không thể đưa lên Chúa những lo âu phiền muộn, những nhu cầu của chúng ta?
Chúng ta lầm khi chúng ta đòi sống ngay bây giờ nếp sống thiên đàng. Chúng ta chưa được ân huệ thấy Chúa nhãn tiền, dầu vậy, chúng ta đã mong muốn loại bỏ chương trình nhiệm tích nhờ đó Chúa tự mạc khải cho chúng ta hôm nay trong đức tin. Cách nói của đức tin không là một cách nói thích hợp là một sự kiện rõ ràng, nhưng không phải vì thế mà không có ý nghĩa vượt xa chính mình vì nó đưa về huyền nhiệm, mỗi tiếng nói siêu vượt chân lý được diễn tả. Mỗi lần như thế, nhờ sức mạnh của dấu hiệu, chúng ta có thể sống một liên hệ đích thực với Chúa. Nhưng còn hơn thế nữa Thiên Chúa không ở trên kia dấu hiệu. Những gì là xác thực trong mạc khải thiên nhiên và một phần nào đó trong mạc khải tiên tri, đều được siêu vượt trong kitô giáo. Dấu hiệu bây giờ là nhiệm tích, nghĩa là nó hiện thực huyền nhiệm của Thiên Chúa. Tiếng nói của con người không chỉ tỏ lộ con người mà thôi. Thiên Chúa đã làm người và con người không thể không có Thiên Chúa: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”. Ai nghe lời Chúa Giêsu là nghe lời Thiên Chúa.
Người ta có thể nêu lên vấn nạn: làm sao tiếng nói con người có thể mạc khải Thiên Chúa được? Những mẫu bánh mì có lẽ là một dấu hiệu rõ rệt hơn là tiếng nói không? Cũng như dấu hiệu của bánh mì bảo đảm sự hiện diện thiết thực của Chúa Kitô thì cũng vậy, tiếng nói bảo đảm mối liên hệ giữa Chúa và con người và giữa con người với Chúa.
Trong tiếng nói nguyện cầu, con người không chỉ sống một mối liên hệ nào đó với Chúa, nhưng nó diễn tả chiều hướng tối hậu của cả con người mình về Chúa, vì Chúa là mục đích tối hậu của con người. Đó là điều thiết yếu hơn bất cứ điều gì khác trong việc cầu nguyện. Thánh Tôma dạy rằng: lời thỉnh nguyện là đặc điểm của con người ở trần thế này, vì con người bất toàn. Vì con người chỉ có thể sống một liên hệ đích thực với Chúa trong một tiến trình liên tục đem con người đến Chúa hơn mà thôi. Con người chỉ quay về với Thiên Chúa, mục đích tối hậu của mình, chỉ vì một niềm hy vọng tìm kiếm và khẩn nài mà thôi. Hơn thế, bản tính của việc thỉnh nguyện giả thiết sự khác biệt tuyệt đối của Thiên Chúa, Đấng con người quay tìm và như thế, việc thỉnh nguyện loại trừ hẳn một nếp sống đạo đức nội tại, quy hướng về một Thiên Chúa không khác biệt với con người, và như thế là sai lạc.
Tôi nhớ một buổi họp hội về việc cầu nguyện mà tôi được dịp tham dự. Thật đáng buồn! Đang khi tôi cố giải thích cho người Công giáo hiểu giá trị đích thực của việc cầu nguyện, thì họ lại không chịu hiểu. Họ chạy theo lý thuyết của một nhà sư Tây Tạng cho rằng việc thỉnh nguyện không thể là một cách cầu nguyện hoàn hảo, chỉ dùng cho những hạng người kém cỏi mà thôi. Nhà sư Tây Tạng chủ trương rằng không thể có một mối liên hệ đích thực với Thiên Chúa. Lời cầu nguyện chỉ hiệu nghiệm khi nó tạo nên trong lòng người một tình trạng tự do nội tâm, bình an và thống nhất. Nhà sư ấy chấp nhận việc ca ngợi Chúa dễ dàng hơn và những nhà thông thái công giáo có mặt hôm ấy đã theo chiều hướng đó. Nhưng họ không hiểu gì cả. Nếu việc cầu nguyện không thiết yếu là một liên hệ, thì con người sẽ bị giam hãm trong chính mình, bị giam hãm trong nội tại tính của mình. Nhưng tâm trạng của tôi mang lợi ích gì? Điều quan trọng là biết Chúa và yêu mến Chúa. Chúa cũng chỉ muốn một điều thôi: tình yêu.
Và vì thế, đời sống Kitô hữu là một liên hệ tự bản chất với Thiên Chúa: mối liên hệ này, thay vì đem lại bình an cho chúng ta, sẽ đưa chúng ta vào một con đường không cùng, trong một niềm lo âu nội tâm, trong một nhu cầu thắng vượt tất cả những gì đã thâu góp được, và không bao giờ cho chúng ta tìm thấy yên nghỉ. Bình an của chúng ta, một ngày kia sẽ tìm thấy ở trên trời.
Cầu nguyện chính là mối liên hệ bản vị của con người với Thiên Chúa. Và người ta đừng nói rằng những ý niệm của chúng ta không thể áp dụng cho Chúa được, hay là Chúa là một Đấng có bản vị. Tân Ước dạy rằng trong duy nhất tính của bản tính Thiên Chúa, những mối liên hệ giữa Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần vẫn tồn tại.
Đó là những Ngôi Vị Thiên Chúa, và Thánh Truyền không cho phép chúng ta dùng danh từ nào khác để diễn tả sự sống thâm sâu của Thiên Chúa. Sự sống thâm sâu của Thiên Chúa, chính là mối liên hệ yêu thương vô cùng giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Nếu sự sống thâm sâu của Thiên Chúa là một mối liên hệ thì con người, nếu Chúa muốn, có thể đi sâu vào sự sống ẩn kín của tình yêu vô biên ấy. Trong việc cầu nguyện, con người được tham dự một cách thực sự vào sự sống Ba Ngôi. Nhưng vì sự sống Ba Ngôi luôn luôn vượt xa vô cùng tất cả mọi sự thông phần, vì thế, cuộc sống của tâm hồn Kitô hữu vẫn là một cuộc đăng trình liên tục để đi đến một cách cầu nguyện cao xa hơn, sống động hơn và tha thiết hơn. Và vì sự thông phần ấy không đến từ nơi nào khác mà là một hồng ân của Chúa, vì thế, đối với con người còn trong trần thế, cầu nguyện chỉ là một lời khẩn xin luôn luôn âu lo hơn trong ước muốn, luôn luôn vững mạnh hơn trong hy vọng, luôn luôn triển nở hơn trong tình yêu.
Một bước nhảy vọt của tâm hồn, trong lời cầu nguyện linh hồn đạt đến Chúa là Đấng vô biên, ở trần gian không có gì có thể so sánh được.
Nhưng làm sao người ta có thể sống mối liên hệ thần linh ấy? Tình yêu thúc đẩy chúng ta trên con đường này chỉ là một cách đáp trả tiếng Chúa, Đấng đã kêu gọi chúng ta trước. Chúng ta chỉ biết cầu nguyện khi chúng ta biết lắng nghe. Việc cầu nguyện của chúng ta tuỳ thuộc vào việc lắng nghe của chúng ta. Như chúng tôi đã nói ở trên, chúng ta cần phải lắng nghe Lời Chúa, Đấng ngỏ lời với chúng ta trong tâm hồn chúng ta, qua Thánh Kinh hay qua Thánh Truyền của Giáo Hội. Khi chúng ta nói về Chúa, con người không thể có sáng kiến. Chính vì việc cầu nguyện là một câu trả lời, nó đòi hỏi chúng ta phải biết lắng nghe, trong niềm tin, lời Chúa nói. Trong việc lắng nghe ấy, hàm chứa huyền nhiệm cao cả nhất của việc cầu nguyện. Lắng nghe Chúa, tức là tiếp nhận Ngôi Lời. Và lúc ấy, việc cầu nguyện của chúng ta trở nên một sự thông phần vào mối liên hệ giữa Chúa Con duy nhất với Cha thần linh của Ngài. Khi nhận lấy bản tính nhân loại, Ngôi Lời Thiên Chúa đã thông truyền cho bản tính ấy phương thế trở nên một mối liên hệ với Chúa Cha trong Ngài. Và bây giờ, Ngài ban cho chúng ta phương thế ấy, với điều kiện là chúng ta phải nên một thân thể với Ngài. Con trong Người Con, trong Thánh Thần của Con, chúng ta quay về Chúa Cha. Như thế, cuộc sống Kitô hữu tự bản thể là cầu nguyện và cầu nguyện là âm vang xa xôi của cuộc nói chuyện yêu thương vô biên mà Chúa Cha vẫn sống với Chúa Con và Chúa Con với Chúa Cha muôn đời.
Trong vực thẳm yêu thương đó, con người bị mất hút đi, tuy nhiên, con người vẫn sống đời đời, vì Chúa Cha cũng nói với họ: “Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con”, và vì trong họ, Ngôi Lời cũng nói “Cha”, “Và bằng chứng là các con là con, chính Chúa Cha đã sai đến trong tâm hồn chúng ta, Thánh Thần của Ngài, Thánh Thần kêu lên: “Abba, Cha ơi!” (Gl 4,6). Đó phải chăng là đời sống Kitô hữu? Vậy bây giờ, tất cả cuộc sống Kitô hữu là cầu nguyện. Sống là cầu nguyện. Luthêrô có lý khi nói: “Như hơi thở cần cho xác thế nào thì cầu nguyện cũng cần cho linh hồn như vậy”. Hơn nữa, chúng ta phải nói cho mỗi người nhưng gì Tôma Xêlanô đã nói về thánh Phanxicô Assisi: “Ngài không cầu nguyện, ngài đã trở nên cầu nguyện”. Cuộc sống Kitô hữu, tự bản thể, là mối liên hệ yêu thương đó.
Nhưng hơn cả Lutero, hơn cả Xêlanô, chúng ta hãy nghe thánh Phaolô: “Đừng thôi cầu nguyện” (I Tx5,17). Chúng ta hãy nghe lời Chúa Giêsu; “Hãy cầu nguyện luôn không mỏi mệt” (Lc 18,1). Cuộc sống của chúng ta phải là cầu nguyện. Cũng như Chúa Con luôn luôn ở trước mặt Chúa Cha, cũng thế, chúng ta hãy ở trước mặt Chúa Cha luôn; chỉ sống cho Chúa mà thôi, chỉ là một liên hệ yêu thương mà thôi.
13: Tuỳ thuộc vào Thánh Thần
Con người có thể bằng lòng với những gì mình có. Rốt cùng, định luật của tạo vật là luật quán tính (thụ động). Con người được gọi vào một thân phận cao cả, nhưng điều đó gây nên mệt mỏi cho họ, mặc dù ân sủng vẫn thúc bách và mặc dù Chúa vẫn khuyến khích họ trên con đường không cùng ấy. Thực ra, ơn sủng không miễn cho họ khỏi mệt mỏi, nhưng ơn sủng giúp họ tiến hơn. Thiên Chúa không thay thế con người.
Luôn luôn con người phải nhờ ơn sủng, và dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, mới có thể tiếp tục cuộc hành trình đi về với Chúa. Hơn nữa, ơn sủng ấy chính là việc cầu nguyện, vì nhờ cầu nguyện, linh hồn được nâng cao lên.
Đời sống kitô-hữu là con đường tiến liên tục đến Chúa, một việc lên cao mãi. Chính khi tâm hồn phó thác hoàn toàn cho mãnh lực Chúa Thánh Thần, trong cầu nguyện, mới không bị dừng lại hay rơi xuống trong tình trạng thấp hèn của mình: được Thánh Thần nâng cao lên mãi đến Chúa, linh hồn sẽ sống. Trong lời cầu nguyện ấy, Chúa Thánh Thần hoạt động và hiện diện. Nếu linh hồn dễ bị rơi xuống thấp, nếu vì định luật thụ động, tự nhiên linh hồn muốn tìm an nghỉ, chính lúc nó để cho hoạt động của Chúa Thánh Thần chiếm hữu nó, linh hồn có thể mở rộng cho ước muốn bi thương của Chúa, và sẽ cầu nguyện, và trong khi cầu nguyện, linh hồn được nâng cao lên tới Chúa. Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô đã dạy: “Thánh Thần đỡ đầu tình cảnh yếu hèn của ta. Vì cầu xin thế nào cho phải, ta nào có biết. Song chính Thánh Thần chuyển cầu cho ta bằng những tiếng rên khôn tả” (Rm 8,26). Như thế có nghĩa: thứ nhất, trong việc cầu nguyện, chính Thánh Thần nâng đỡ chúng ta, thứ hai, việc cầu nguyện của chúng ta là việc thỉnh nguyện: Thánh Thần chuyển cầu cho chúng ta. Thánh Thần vẫn là thầy dạy cầu nguyện. Không ai khác có thể dạy chúng ta khoa cầu nguyện cả. Nếu việc cầu nguyện là một sự thông phần vào mối liên hệ giữa Chúa Cha và Chúa Con, việc kết hợp với Chúa Kitô giả thiết phải có hoạt động của Thánh Thần. Chúng ta là con trong người Con Một, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần mà Chúa đã ban cho chúng ta. Chính nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu được cưu mang trong lòng Đức Mẹ. Chính nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần mà Chúa Kitô hiện diện trong Giáo Hội và sống trong tâm hồn con người. Chính cũng nhờ Thánh Thần mà chúng ta cầu nguyện.
Việc cầu nguyện đòi buộc một tâm hồn hoàn toàn tuân phục hoạt động của Chúa Thánh Thần. Nhưng cầu nguyện và tuân phục không thể rời nhau: chúng ta không biết phải cầu nguyện thế nào, chính Thánh Thần chuyển cầu cho chúng ta bằng những tiếng rên khôn tả.
Có lẽ lời cầu nguyện của chúng ta phải là ngợi khen và cảm tạ. Trong kitô giáo, việc tạ ơn là đặc điểm đầu tiên của cầu nguyện: hiến tế tạ ơn phải chăng là cách cầu nguyện tuyệt hảo của Giáo Hội?
Trên thực tế bao lâu chúng ta chưa kiện toàn ơn gọi của chúng ta, việc kiện toàn ấy sẽ như một mục tiêu phải đạt đến, một nhiệm vụ tiên quyết trên những nhiệm vụ khác. Bao lâu chúng ta chưa là thánh, chúng ta phải chiến đấu để nên thánh. Chúng ta có thể tự bằng lòng với sự nghèo hèn của mình, nhưng Chúa có bằng lòng chấp nhận như thế không? Thánh Gioan Thánh Giá nói: “Bao nhiêu lần người ta hỏi tôi: nhưng Chúa có bằng lòng về tôi không? – Hỡi con, tôi trả lời: làm sao Chúa có thể bằng lòng về con được? Như thế, Ngài chấp nhận quá ít nếu Ngài chỉ có con thôi; Thiên Chúa chỉ bằng lòng chính mình mà thôi” (vive flamme).
Câu hỏi phải đặt ra là chúng ta có làm Chúa bằng lòng không? Vì Chúa không thể bằng lòng vì bao lâu chúng ta chưa nên giống Ngài. Con người được kêu gọi yêu mến và ngợi khen Chúa, không thể bằng lòng được bao lâu họ chưa yêu mến Chúa trong Thánh Thần, bao lâu họ chưa ca tụng Chúa trong lời ca tụng của Chúa Con. Đó là điều thánh Gioan Thánh Giá nói trong “ngọn lửa sống động”: “Lúc ấy linh hồn sẽ mãn nguyện khi linh hồn có thể cho Chúa chính Chúa, không gì khác nữa”. Và Giáo Hội sống sự kiện toàn việc cứu rỗi trong lời cầu nguyện cao cả nhất của mình: hiến tế tạ ơn. Giáo Hội dâng gì cho Chúa? Chính Con Một Ngài. Và trong việc hiến dâng Con Chúa, Chúa Cha được toại lòng, an nghỉ và vui mừng. Đó là điều chúng ta luôn hướng đến luôn, cho Chúa chính Chúa, và chúng ta phải hiểu rằng Chúa sẽ không bao giờ bằng lòng bao lâu chúng ta chưa trở nên chính Ngài. Chân phước Ruysbroeck đã nói: “Thiên Chúa không bao giờ biết thoả mãn. Bạn hãy ném vào vực thẳm của Chúa một cái gì, tất cả những gì bạn ném vào đó, đều bị nuốt ngay và Chúa vẫn còn khao khát vô biên”.
Khi chúng ta mới chập chững bước vào đời sống tu đức, chúng ta tưởng đã làm nhiều lắm khi đọc được vài kinh nguyện hay dâng một vào việc hy sinh, nhưng khi chúng ta đi càng sâu vào sự thánh thiện, Chúa càng ngày càng đòi buộc, và chúng ta càng ngày càng không thoả mãn với những gì chúng ta làm cho Ngài. Thiên Chúa càng ngày càng đòi hỏi nhiều hơn và con người càng cảm thấy mình cho đi càng ít. Tại sao thế? Thiên Chúa là Thiên Chúa, và tất cả những gì được tạo nên cũng không thể đáp ứng đòi hỏi của tình yêu vô biên của Ngài. Chính trong đòi buộc không thể được thoả mãn ấy, Chúa tỏ hiện tình yêu chân thực của Ngài. Và linh hồn nào càng lo âu, càng bị xâu xé vì không thể cho Chúa đủ, thì càng nên thánh thiện, vì đó là mức độ của sự hiện diện của Thánh Thần.
Chúng ta hãy dừng lại nơi ý tưởng này. Hãy suy gẫm về tình yêu Chúa như một sự cho đi chính mình. Nhưng tình yêu Chúa càng sâu rộng trong việc tự hiến của mình, thì Ngài đòi buộc chúng ta tự hiến cho Ngài và Ngài đòi buộc nơi ta tất cả, làm như Ngài được vui mừng nơi ta. Ai yêu thì tìm thấy hạnh phúc của mình nơi người mình yêu. Ông Silêsius đã nói: “Chúa không thể sống mà không có tôi”. Đây không phải là một lời lộng thánh. Nếu tôi ở trong Đức Kitô thì Chúa không thể sống mà không có tôi. Nếu không có Chúa Con thì cũng không có Chúa Cha, và tôi là con trong Chúa Con. Tình yêu của Chúa mới thực sự là tình yêu. Ngài yêu chúng ta không những Ngài tự hiến mà Ngài đòi buộc tất cả nơi chúng ta. Ngài yêu chúng ta, vì thế, chúng ta là sự sống của Ngài, chúng ta cũng có thể là sự chết của Ngài nữa.
Đó chính là hạnh phúc của chúng ta. Sự tự do của chúng ta đối với Chúa ví như sự tự do của một thanh nữ không tìm thấy ai yêu mình cả. Tự do để làm gì? Nếu sự tự do không dùng để yêu? Tất cả những gì tôi có, tôi phải cho đi. Nếu không, những thứ đó không có giá trị gì cả. Nếu Chúa để cho tôi tự lo lấy thân phận của tôi, sự sống của tôi sẽ trở nên sự chết. Chính vì Chúa thương tôi mà Ngài đã ban cho cuộc đời hèn mạt của tôi, cho thân tôi một giá trị vô biên. Tôi chỉ có giá trị khi Chúa yêu tôi mà thôi. Vì thế, giá trị của chúng ta xem ra chẳng ra gì, thực ra là vô biên.
Vậy chúng ta phải cho Chúa chính mình Chúa. Từ đó nảy sinh tính cách sinh động của việc cầu nguyện. Làm sao con người có thể bằng lòng với việc cầu nguyện của mình được? Lời cầu nguyện luôn luôn khác. Nếu người nào cầu nguyện lúc năm mươi tuổi như lúc hai mươi tuổi, hay lúc sáu mươi tuổi như lúc năm mươi, thì thực ra người ấy không biết cầu nguyện bao giờ, vì nếu cầu nguyện biến đổi tâm hồn và thúc đẩy tâm hồn siêu vượt mãi, một cách liên tục, trong hy vọng, trong tình yêu và trong sự tự hiến.
Cầu nguyện là ước muốn, là khao khát thánh thiện, là nhu cầu trong sạch tuyệt đối, nhu cầu được tình yêu nung nấu mình. Chúng ta chỉ hưởng được niềm vui khi chúng ta bị nắm lấy và bị chiếm hữu hoàn toàn. Nếu chúng ta thực sự là kitô-hữu, cái chết sẽ là niềm vui tuyệt vời của chúng ta. Tại sa? Vì chỉ lúc ấy, chúng ta mới hoàn toàn tự hiến. Bao lâu tình yêu còn loại trừ không muốn chết đi, thì bấy lâu, tình yêu chỉ là một trò đùa: người ta tự hiến rồi cướp lại chính mình. Chính trong sự chết mà con người hoàn toàn tự hiến mà không cần đòi hỏi một điều gì, không cần một bảo đảm nào ngoài sự bảo đảm của đức tin. Như thế, đời sống kitô-hữu không có mục đích nào khác là chết. Chúng ta chỉ đạt đến sự trọn lành khi chúng ta chết, vì chỉ trong cái chết chúng ta mới hiến thân trọn vẹn và vĩnh viễn, và như thế, tình yêu của chúng ta sẽ trọn hảo.
Trong ánh sáng ấy, chúng ta phải biết sống cuộc sống của mình. Lúc ấy, chẳng những sự chết không làm chúng ta kinh sợ mà lại là sự hoàn hảo tối hậu của cuộc đời chúng ta. Như Chúa Giêsu, chúng ta sẽ sống hành động cuối cùng của chúng ta trong sự chết. Sự chết không là một gãy đổ, một sự khép kín. Nó sẽ khép kín gì được? Nó sẽ mở rộng cho chúng ta lối đi về Chúa. Nó sẽ mở rộng cho chúng ta vào tình yêu. Làm sao chúng ta sợ sự chết được? Tất cả đời sống chúng ta trở thành một cuộc đi tới sự tự hiến tối hậu mà Chúa đang chờ đợi nơi ta, và trong đó, chúng ta tìm thấy cuộc đời kitô-hữu chúng ta được kiện toàn, vì, sau cùng, chúng ta có thể sống sự hoàn hảo của đức ái.
Đòi hỏi ít hơn thế tức là đóng khung chúng ta trong chính mình, trong sự nghèo hèn của chúng ta, tức là chúng ta từ chối chính mình với Chúa, là cưỡng bách Đấng Quyền Năng tuyệt đối, Ngài chỉ tìm thấy nơi ta kích thước của chính Ngài. Nếu Chúa không tự thoả mãn chính mình, thì hậu quả là thu gọn Thiên Chúa vào một kích thước không phải là kích thước của Ngài, và như thế là cưỡng bách Ngài. Ngài sống trong chúng ta như một khả thể phải được thực thi trong hành động. Chúa nói với thánh Catarina Xiêna: “Con là vô biên trong ao ước, cũng như Cha là vô biên trong hành động”.
Ôi sự thật cao vời biết chừng nào! Không phải tôi mong muốn sự thánh thiện, chính Chúa đòi hỏi điều đó nơi tôi, Không phải tôi tìm được hạnh phúc trong sự thánh thiện, mà chính Chúa tìm thấy hạnh phúc của Ngài trong sự thánh thiện của tôi. Nhưng tôi, tôi muốn là niềm vui của Chúa. Tôi muốn rằng vì tình yêu của Ngài, Ngài tìm thấy sự sống của Ngài trong tôi. Không phải tôi tìm chính mình, nhưng tôi tìm Ngài. Điều làm tôi băn khoăn không phải là nhu cầu trở nên trọn hảo, nhưng là nhu cầu cho Chúa được có thể sống trong tôi đúng với kích thước vô biên của Ngài.
Chắc chắn những điều ấy, đối với một người phàm là một ước muốn vô lý, nhưng không có gì là không thể đối với Chúa, Đấng đã chọn tôi, yêu tôi và muốn sống trong tôi.
Quả thực, trong việc trao ban Thánh Thần của Ngài, Thiên Chúa sống trong tâm hồn con người và làm cho nó nở ra đến kích thước bao la của Ngài.
Từ đó, chúng ta hiểu sự cao cả của các thánh. Đền thờ thánh Phêrô chỉ là món đồ chơi trẻ con khi đem so sánh với tâm hồn một đấng thánh. Chúng ta hãy tưởng đến tâm hồn của những vị thánh như Phanxicô Assisi, Têrêxa Avila, Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Nhưng sự cao sang lộng lẫy của trần gian có là gì so với một tâm hồn có Chúa ngự trị? Chính khi nhìn thấy sự cao cả ấy, con người mới thấy như do một trực giác về tầm mức bao la của vận mệnh của mình. Chúng ta lớn lao đến nỗi thế giới này không thể chứa đựng chúng ta. Cuộc đời chúng ta lớn hơn lịch sử, lớn đến mức độ chúng ta không thể sợ sự chết nữa. Chúng ta mắc một căn bệnh là bệnh “duy lịch sử”. Làm cho nhiều người quan niệm rằng, con người nhỏ bé hơn lịch sử. Dù vậy, con người không sống trong lịch sử, nhưng trong quả tim Thiên Chúa. Sự bao la của vũ trụ không thể chứa đựng một em bé, tất cả khoản dài của thời gian không thể bao trùm một hơi thở của một tâm hồn. Con người có một giá trị vô biên, nếu Chúa thương họ. Quả tim con người là nơi Chúa ngự trị, và vì thế, nó lớn hơn cả vũ trụ.
Vì chúng ta được tạo nên cho Chúa, sự đói khát của chúng ta càng tăng khi chúng ta càng được no say. Chúa ban cho chúng ta tình yêu và tình yêu không bao giờ cho là đủ. Cũng như ngọn lửa, nó chỉ sống được khi nó lan tràn. Tình yêu triển nở mãi trong ta và với nó, nhưng ước muốn và nhu cầu yêu thêm nữa vẫn tăng lên. Chúng ta càng đi sâu, chúng ta càng đói khát Chúa hơn. Đúng thế, nhưng không phải chỉ có sự khao khát Chúa tăng thêm mà thôi, nhưng nhu cầu của tâm hồn muốn mở rộng để đón nhận ơn Chúa cũng tăng thêm. Nó sẽ trở nên càng ngày càng không chịu nỗi. Không ai có thể bắt một thánh nhân dừng bước. Lúc đầu, khi chúng ta còn trẻ, chúng ta đi từng bước một, nhưng người nào, trong suốt cuộc đời mình, đã đáp trả tiếng gọi của Chúa với một sự trung thành khiêm tốn, người ấy chạy và bay trong tuổi già. Càng tiến thêm, thay vì nhọc mệt, tâm hồn càng mạnh mẽ hơn, tâm hồn sẽ chạy, sẽ bay.
Như thế, tuổi già là một ân huệ với điều kiện là phải trung thành với Chúa luôn, vì lúc ấy, đức ái đã lan tràn trong tâm hồn và biến tâm hồn thành một thánh đường xứng đáng cho Chúa. Con người kitô-hữu không biết đến sự suy đồi và trong đời sống kitô-hữu, không có sự già nua cằn cỗi: chỉ có một sự tăng triển liên tục của sự sống vì có một sự tăng triển tình yêu. Tất cả trở nên trong lành hơn, đơn giản hơn, xác thực và tuyệt vời hơn. Linh hồn chỉ còn biết Chúa thôi và chỉ yêu Chúa mà thôi.
Chúng ta đừng sợ ngày cùng tận, có thể là rất gần. Cũng đừng sợ tuổi già. Tuổi già chỉ trở nên bi đát đối với những người không có Chúa mà thôi; nhưng đối với những ai yêu mến Chúa, những năm tháng chỉ phá tan bức màn để cho sự Hiện Diện duy nhất được rạng sáng hơn. Chúng ta đừng ngoái nhìn lại sau lưng, chúng ta hãy sống những lời của thánh Phaolô: “Không phải là tôi đã đạt được giải hay đã thành toàn, nhưng tôi đang đuổi theo và chụp lấy chiếm đoạt, bởi chưng tôi đã được Đức Giêsu Kitô chụp lấy chiếm đoạt rồi. Hỡi anh em, phần tôi, tôi chưa kể mình là đã chiếm đoạt được rồi; nhưng điều duy nhất là quên phía sau và lao mình tới trước […] (Pl 3, 12-13).
Đừng nuối tiếc tuổi trẻ hay tuổi già, vì mục đích vẫn ở trước mặt ta. Chúng ta hãy bước tới trong sự thanh thản tươi vui và chắc chắn, vì Đấng kêu gọi chúng ta là Yêu Thương. Chúng ta không đi về sự chết mà là về sự sống. Và chớ gì Thánh Thần đưa chúng ta đi tới trước, trong một lời cầu nguyện liên lỉ mỗi lúc, một lời cầu nguyện sống động hơn. Làm sao thế giới này có thể chấp nhận sứ điệp cứu rỗi và tin vào sự sống thiên đàng, nếu chúng ta sợ sự cứu rỗi đó, nếu chúng ta tìm hết mọi cách để lùi nó lại sau này, nếu chúng ta còn nuối tiếc một cuộc sống đang vượt khỏi tầm tay chúng ta? Nếu chúng ta tìm thấy một thiện hảo của mình trong những thứ mà thế giới này trao hiến cho chúng ta, thì làm sao chúng ta có thể chiếm hữu Thánh Thần, Đấng gọi: “Hãy đến, lạy Chúa Giêsu!”
Sự sống thật của chúng ta ở bên kia thế giới. Sự sống thật của chúng ta là Thiên Chúa. Chớ gì linh hồn chúng ta được tự do để chạy đến với Ngài, và đó là hiệu quả mà cầu nguyện mang lại.
Chúng ta chỉ có Chúa để mơ ước thôi, và Chúa không bao giờ làm chúng ta thất vọng và việc phụng sự Ngài là một điều quí giá.
Thực ra đối với người trẻ, tự giải thoát mình khỏi ý riêng, khỏi ước muốn tiến thân hay đạt đến một địa vị nào đó, nhưng hãy tự giải thoát mình từ từ và các bạn sẽ yên lành vui tươi. Hãy tìm Chúa mà thôi, các bạn sẽ không bao giờ thất vọng. Tất cả mọi nẻo đường đều đưa chúng ta về gần Chúa: chức vụ nào đó hay một đời sống chìm sâu vào thinh lặng. Chúa cao cả hơn mọi sự…Tìm Chúa, ước ao Chúa thôi. Đó là đời sống kitô-hữu. Sự cao cả đích thực ở trong tình yêu. Đó là mục tiêu của chúng ta, đó là việc cầu nguyện của chúng ta. Chúng ta không cầu cạnh gì nơi ai nữa, Chúa thôi.
Việc cầu nguyện thúc đẩy tất cả những ai được Chúa Thánh Thần ngự trị và giữ họ trong con đường giải thoát và thanh luyện tiệm tiến và liên lỉ, Và linh hồn mở rộng mãi để đón nhận ơn Chúa. Ông Pascal có một lời chí lý: “Ngươi sẽ không tìm Ta nếu ngươi đã không tìm thấy Ta rồi”. Chính sự tìm kiếm Chúa liên lỉ, sự khao khát càng ngày càng mãnh liệt là dấu hiệu của sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn con người. Nhà thần bí thành Byzance là Simon Nhà Thần học mới, đã nói khi quay về Chúa Thánh Thần: “Chúa là chính Chúa trong con, niềm ước mơ của con”. Chớ gì Chúa là niềm ao ước thực sự trong chúng ta và chớ gì chúng ta không ao ước gì hơn là Chúa.
14: Phụng vụ giờ kinh
Chúng ta đã nói đến việc cầu nguyện như việc thi hành chức vụ tư tế chung cho mọi tín hữu, bây giờ chúng ta hãy đề cập đến kinh nguyện như việc thi hành chức vụ tư tế thừa tác của chúng ta. Dù vậy, chúng ta đừng tưởng rằng cách cầu nguyện nầy chỉ dành riêng cho chúng ta mà thôi. Mọi kitô-hữu là chi thể của Nhiệm Thể, có thể và phải tham dự vào kinh nguyện của chúng ta. Việc chủ toạ phụng vụ, đặc biệt của chức tư tế thừa tác, thay vì loại trừ, lại đòi buộc sự tham dự của giáo dân (nhưng vẫn siêu vượt điều đó) và chính trong việc cử hành phụng vụ, được linh mục chủ sự, lời cầu nguyện của giáo dân đạt đến hoàn hảo.
Như thế, lời cầu nguyện riêng tự nhiên và cần thiết phải quy hướng về phụng vụ. Hình Như Công Đồng đã khơi lên trong Giáo Hội ý thức này là chức tư tế thừa tác được quy hướng về dân Chúa và chức tư tế chung của dân Chúa lại quy hướng về chức tư tế thừa tác. Và chính vì thế mà Giáo Hội kêu mời dân Chúa sống kinh nguyện công cộng của Giáo Hội với chức tư tế thừa tác. Cũng như việc tham dự của giáo dân vào thánh lễ cần thiết thế nào thì việc tham dự của giáo dân vào kinh nguyện giờ kinh cũng quan trọng như thế.
Việc cầu nguyện cá nhân là việc thi hành chức tư tế chung, tự nó hướng về việc thánh hoá người cầu nguyện. Trái lại, kinh nguyện giờ kinh hướng về việc thánh hoá toàn thể nhân loại. Hơn thế nữa, nó thánh hiến, thánh hoá tất cả tạo thành. Chúng ta có thể nói trong việc cầu nguyện của mình, chức tư tế thừa tác sống một trật, với cách thức hiệu năng nhất, việc thi hành quyền vương giả của mình. Thực ra, chức tư tế thừa tác không có một quyền nào trực tiếp trên phương diện thế trần, nhưng nhờ lời cầu nguyện, chức ấy có quyền hiến dâng lên Chúa tất cả tạo thành. Và toàn thể tạo thành, nhờ kinh nguyện của linh mục, trở nên một hiến vật cho Chúa.
Việc thánh hiến đòi hỏi con người chuyển cho Chúa tất cả những gì mình có. Và con người không thể nào dâng những gì mình không có. Chức tư tế thừa tác tỏ hiện quyền vương giả của mình trong việc hiến dâng lên Chúa toàn thể nhân loại và tất cả tạo thành.
Chức linh mục của chúng ta, như một sự tham dự vào quyền vương giả của Chúa Kitô trên vũ trụ, có sứ mệnh dâng hiến nó cho Chúa Cha. Việc dâng hiến ấy là mục đích tối hậu của sự sống Giáo Hội vì đó cũng là mục tiêu của sự sống trên trời. Cuộc sống trên trời không là gì khác, mà là một hy tế liên lỉ ca tụng Chúa, oblatio munda (hiến dâng thế giới) của Chúa Kitô cũng không phải chỉ là việc hiến dâng và sự trở về của Chúa Con trong cung lòng Chúa Cha mãi mãi mà là sự thăng thiên của cả Con Thiên Chúa, cả nhân loại và của cả tạo thành, vào cung lòng Chúa Cha.
Sự cao cả và sự giản dị của chương trình Thiên Chúa. Cũng như mọi sự đã được sáng tạo nhờ Ngôi Lời Thiên Chúa, cũng thế, mọi vật được nâng cao lên tới Chúa, nhờ Chúa Kitô. Nhưng Chúa Kitô không chỉ là Con Thiên Chúa, Ngài cũng là Con của loài người nữa. Không phải một mình Ngài sẽ nâng cao vũ trụ đến Chúa, mà cũng nhờ những người mà Ngài đã cho tham dự vào chức tư tế của Ngài nữa. Chúa Kitô chính là đá gốc trên đó tất cả toà nhà ân sủng được xây nên. Chính Ngài là Con Thiên Chúa vừa là con Đức Trinh Nữ Maria, đã nâng cao vũ trụ, đúng thế, nhưng Giáo Hội vẫn cảm thấy điều đó như một đe doạ cho một chân lý nền tảng của đức tin: dù sao trái đất vẫn là quả tim của vũ trụ, vì chính trên mặt đất nầy, Con Thiên Chúa đã làm người. Và nhờ việc nhập thể của Ngài, một người nữ đã trở nên Mẹ Thiên Chúa và là Nữ Hoàng không những của loài người mà thôi mà của cả các thiên thần và toàn thể vũ trụ.
Chính chức tư tế của Chúa Kitô đã giao hoà tất cả tạo thành với Chúa và đã hiến dâng nó cho Chúa Cha, trong việc hiến dâng mà chính Ngài đã tự hiến. Chức tư tế ấy được nối tiếp và hoạt động trong toàn thể Giáo Hội, đặc biệt là nhờ chức tư tế thừa tác của chúng ta. Nhờ mầu nhiệm nhập thể của Chúa đó, con người là tạo vật cao cả nhất trong trật tự của ân sủng, không tạo vật nào được gần Chúa hơn, không tạo vật nào đã nhận lãnh từ nơi Chúa, một sứ mệnh cao cả hơn, hiệu năng hơn và phổ quát hơn.
Thiên Chúa đã chọn những tạo vật kém nhất trong các thụ tạo để làm bẽ mặt những thụ tạo cao cả hơn. Thánh Grêgôriô thành Nysse đã có một trực giác rất đúng khi ngài nói: “Thiên Chúa đã bỏ chín mươi chín con chiên của Ngài để xuống tìm con chiên rốt hết là con người”. Chúng ta ở bậc rốt hết trong bản tính thiêng liêng, chúng ta đã được nâng lên bậc cao nhất, đến tận ngai toà của Chúa, bên hữu Chúa Cha. Các giáo phụ vẫn nhìn nhận sự cao cả của con người. Những người chủ trương loại bỏ việc Nhập thể của Ngôi Lời làm sao có thể bênh vực sự cao cả và địa vị của con người được? Thiên Chúa đã làm người và bây giờ con người và toàn thể tạo vật đi lên đến Chúa.
Chúng ta sống chức vụ tư tế ấy nhờ kinh nguyện các giờ. Chúng ta phải tìm hiểu xem kinh nguyện ấy là gì để có thể sống những kinh nguyện ấy một cách mãnh liệt. Điều thứ nhất mà giờ kinh ấy dạy cho chúng ta là nhờ việc kinh nguyện ấy, Giáo Hội muốn thực sự đáp ứng với nhiệm vụ Chúa Giêsu đã trao là cầu nguyện không ngừng. Trước hết mọi sự khác, kinh nguyện các giờ thánh hoá thời gian: những giờ khắc trong ngày, những ngày trong tuần, những thời trong năm. Như thế, tất cả sự sống của thế giới, thời gian trôi qua chỉ là cầu nguyện. Thời gian trôi qua một cách hư vô, được thánh hiến cho Chúa và thánh lễ đem lại cho nó một nội dung là mầu nhiệm của Chúa Kitô. Tất cả lịch sử đều được thánh hiến, được quy hướng về Chúa. Có một lịch sử thánh và lịch sử ấy được hoàn hảo trong việc Nhập Thể của Ngôi Lời. Bây giờ, thời gian và lịch sử không có nội dung nào khác ngoài sự Hiện Diện của Chúa. Thực ra, Giáo Hội sống một lịch sử, sống một hành trình như Giáo Hội đã sống lịch sử ấy trong sự hiện diện của sự chung kết.
Chúa hiện diện. Sự hiện diện thực tiễn của Chúa Kitô ngăn cản không cho chúng ta tưởng rằng ngày mai, chúng ta có thể đạt đến những mục tiêu cao hơn những mục tiêu mà chúng ta đã đạt đến, chiếm hữu những thiện hảo quan trọng hơn những gì Chúa đã ban cho ta. Thiên Chúa đã cho chúng ta Con Ngài, Giáo Hội sống hiệp nhất với Chúa Kitô. Thời gian không cho chúng ta cái gì hơn những gì việc hiệp lễ nào cũng có thể cho, ngay cả việc đọc Tin Mừng hằng ngày cũng vậy.
Thời gian từ ngày Chúa Kitô sống lại không làm cho chúng ta cách xa với Chúa, nhưng lại làm cho chúng ta bám víu vào sự hiện diện của Ngài càng ngày càng sâu xa hơn. Đó là điều kiện mâu thuẫn của một sự hiện diện đi theo chúng ta trong cuộc đăng trình và đem lại cho chúng ta nhiệm vụ là đừng bao giờ để cho thời gian rứt chúng ta ra khỏi Chúa Kitô. Vì thế, phải thánh hoá thời gian, thời gian ấy không thể mang một nội dung nào, hay một giá trị nào ngoài mầu nhiệm của sự hiện diện của Chúa Kitô.
Thực ra là một hoàn cảnh may mắn, những ca vãn của các giờ kinh nhỏ mà chúng ta đọc hôm nay nhắc lại kỷ niệm của cuộc tử nạn. Sự thánh hiến thời gian không chỉ nhắc nhớ hoạt động sáng tạo của Chúa mà thôi, mà là nhắc nhớ cuộc tử nạn của Chúa Kitô. Vì thời gian chúng ta đang sống là một thời gian được thánh hiến, không phải vì nó hiện tại hoá hành động sáng tạo mà thôi mà vì nó chứa đựng huyền nhiệm của Chúa Kitô.
Một điểm khác cần suy niệm: phụng vụ giờ kinh không những thánh hiến thời gian mà thôi, mà còn thánh hiến cả tạo thành. Tôi cần thú nhận rằng, trong suốt hai mươi năm, kinh nhật tụng là một gánh nặng đối với tôi. Tôi tự nói: sự kết hiệp với Chúa phải chăng được thực hiện trong việc bỏ quên tất cả mọi sự? Chắc chắn, sách Thánh Vịnh là một lời nguyện. thay vì giúp tôi hồi tâm với Chúa, lại làm cho tôi chia trí. Là lời nguyện của Israel ngày xưa, nó là một bằng chứng của sự sống của một dân tộc chưa sống kết hợp thật sự với Chúa mặc dù họ đã tìm kiếm và mong ước sự kết hiệp ấy. Kitô giáo, trái lại phải chăng là một bằng chứng của sự kết hiệp đã được thực hiện trong Chúa Kitô? Trong Thánh Vịnh, Israel nói với Chúa; nhưng họ nói về gia đình, về thành đô, về chiến tranh, về vua chúa, về nhưng công việc đồng áng, và còn biết bao nhiêu điều khác: làm sao tất cả những thứ đó có thể giúp tôi tập trung tư tưởng tôi về với Chúa? Tôi đã nghĩ đến những kinh nguyện mà theo tôi, sẽ giúp tôi chú ý đến Chúa và nâng hồn lên đến Chúa dễ dàng hơn và sẽ rứt tôi ra khỏi nhưng bận bịu trần thế. Sau đó tôi phải thú nhận rằng tôi đã lầm. vì việc thánh hiến thế giới đã được trao trọn cho lời kinh của chức tư tế kitô giáo.
Thực sự, nỗ lực của chúng ta lớn lao kinh khủng: chúng ta phải bao gồm tất cả mọi sự, mà lại phải nâng chúng lên trong khi chúng ta tự nâng hồn lên đến ngai toà Chúa. Cuộc sống kitô-hữu của chúng ta không là một trốn thoát ra ngoài thời gian, nó không thể là một trốn thoát ra ngoài thời gian, mà là một sự thánh hiến thời gian, nó không thể là một trốn thoát ra khỏi trần gian mà là sự thánh hiến trần gian. Chúng ta phải có đủ sức mạnh để đảm nhận tất cả cái khối của sự vật, trong yêu thương, để đem nó lên đến Chúa. Đó là kinh nguyện của chúng ta. Đúng thế, dù không có gia đình, chúng ta phải đọc những thánh vịnh nói về vợ, về con, hát lên lời ca vãn của hôn nhân như thánh vịnh 44, và chúng ta phải ca lên bài ca của cuộc kiến tạo và sự sống của thành phố, đô thị, vì thành phố đô thị cũng được thánh hiến, vì Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ thế gian.
Nhờ kinh nguyện, mọi sự đều hiện thực trong tâm trí linh mục và ngài phải xem như của mình để hiến dâng tất cả cho Chúa. Không có cái gì xem ra ô hợp và nhiều như quyển Thánh Vịnh. Đó là một quyển sách viết trong một thời gian lâu dài nhất, hơn nữa, nò đề cập đến mọi vấn đề và nó chứng thực sự tiến hoá của một xã hội qua các thế kỷ, từ thời thô kệch đến thời Maccabê. Trong các thánh vịnh, chúng ta tìm thấy tất cả màu sắc của sách Cựu Ước, chúng ta nghe những tiếng khóc, những tiếng hò reo vui mừng hay uất hận và những tiếng nói yêu thương của cả một dân tộc trong suốt lịch sử của họ. Và tất cả những điều đó trở nên tiếng nói của chúng ta, phong phú biết bao!
Tôi biết, khó mà cầu nguyện với các thánh vịnh: vì, muốn đồng hoá với lời kinh ấy, tôi phải trở nên con người của cả thế giới…Đức bác ái của tôi phải đảm nhận tất cả cái khối nặng nề của mọi vật mà không trở nên nô lệ của một vật nào, cũng không để cho một vật nào làm tôi xao lãng. Một đức bác ái như thế rất khó, và vì thế, chúng ta dễ bị chia trí khi đọc những lời kinh ấy. Phải, chia trí là một sự dễ dàng, nhưng sự khó khăn không loại bỏ được sự cao cả của lời kinh ấy, nó nhấn mạnh sự trọng đại là đúng hơn.
Xuyên qua quyển Thánh Vịnh, linh mục thực sự trở nên người mà tất cả nhân loại được hiệp nhất. Con người nhận lấy trên mình sức nặng nề của trách nhiệm phổ quát, và người ấy không bị đè bẹp vỉ người ấy có sức lực của một lời kinh của Chúa Kitô. Linh mục được gọi để sống trước mặt Chúa và linh mục sống trách nhiệm ấy trong một lời kinh có thể van xin và nhận lấy mọi sự từ nơi Chúa. Tất cả hoạt động của Chúa cho thế giới tuỳ thuộc vào lời kinh của Giáo Hội, vào lời kinh của chúng ta. Vì không những Thiên Chúa không làm gì mà không báo trước cho các bạn hữu Chúa, những vị tiên tri (Am 3,7), nhưng tất cả những gì Ngài làm, Ngài làm tuỳ theo kinh nguyện của chúng ta. Ngài đã muốn rằng lời cầu nguyện của Giáo Hội tiếp nối sứ mệnh của Chúa Kitô và chính Giáo Hội mới nài xin Ngài can thiệp vào sự sống của thế giới được. Và Giáo Hội sống sứ mệnh phổ cập của mình là sứ mệnh cứu rỗi và ca tụng Chúa, nhờ mỗi linh mục đọc kinh nhật tụng. Hơn nữa, vì Giáo Hội sống giữa trần gian, vì Giáo Hội phải tùy thuộc vào những hoàn cảnh thực tế mỗi ngày, chính nhờ kinh nguyện các giờ kinh mà Giáo Hội có thể đảm nhận trách nhiệm của toàn thể vũ trụ trước mặt Chúa; và chính nhở hiệu năng của lời cầu nguyện ấy mà Giáo Hội có thể thực hiện những gì Chúa trao phó.
Tất cả những gì Thiên Chúa thực hiện, ngay cả trong việc quan phòng thông thường, đều tuỳ thuộc vào lời cầu nguyện: điều đó xem ra như vô thường. Nhiều người chỉ muốn nhìn nhận sự đáp lời của Chúa cho lời nguyện của một người trong những sự can thiệp bất thường làm đảo lộn tất cả mọi định luật của vạn vật mà thôi, nghĩ là họ chỉ nhận phép lạ. Cũng cùng một thế cách ấy, khi giải thích những bộ máy tinh vi của những định luật tâm lý, người ta xem ra muốn loại bỏ hoạt động bí nhiệm của ân sủng. Dù vậy, ân sủng thấm nhuần và bao trùm tất cả mọi khả năng của con người, vì Chúa ở trong con người và Ngài không cần phải can thiệp từ bên ngoài để hành động.
Những định luật vật lý, những yếu tố thiết định xã hội, cho chúng ta những lý do để loại bỏ hoạt động của Chúa, đáp trả những kinh nguyện của con người. Nhưng chúng ta quên rằng Chúa là Đấng sáng tạo: vạn vật suy phục và vâng lời Ngài, ngay cả khi xem ra nó được hướng dẫn bởi nhu cầu. Ông Maitre Eckart có một quan niệm đứng đắn hơn về sự vật: Thiên Chúa sáng tạo, con người được gọi để cộng tác với Ngài trong công việc sáng tạo. Sự cộng tác của con người với Thiên Chúa là toàn diện, và được thực thi trong lời cầu nguyện, vì nơi đó, Chúa là Đấng yêu thương chúng ta, sẽ hành động đáp trả lời khẩn cầu của ta. Và như thế, mọi hoạt động của Chúa đều là một câu trả lời cho lời cầu nguyện của con người, nó là bằng chứng của tình yêu Chúa đối với con người, vì Chúa đã làm những gì Ngài đã làm chỉ vì con người mà thôi.
Đó là những gì tình yêu đòi buộc, khi tình yêu là đích thực và khi nó ràng buộc hoàn toàn người yêu với người được yêu. Giáo Hội-Hiền-Thê có mọi quyền hành trên Chúa Kitô, Chúa Kitô có mọi quyền hành trên Chúa Cha, và trong lời cầu nguyện của linh mục, chính Giáo Hội, chính Chúa Kitô cầu nguyện. Vì thế, lời cầu nguyện của linh mục hoàn toàn hữu hiệu: “Tất cả những gì chúng con nhân danh Thầy mà cầu xin, thì Cha sẽ ban cho chúng con”. Đây không phải là quan niệm riêng của tôi, mà là niềm tin của cộng đoàn kitô-hữu đầu tiên đã có. Tôi xin dẫn chứng bằng thư gửi cho ông Đi-óc-nét: “Kitô-hữu là linh hồn của thế giới, chính nhờ họ mà thế giới sống được.” Và đây là một câu của ông Aristide, một nhà biện giáo xưa hơn bức thư nói trên: “Nếu thế giới này tồn tại là do lời cầu nguyện của các kitô-hữu”. Chúng ta có thể tin những lời ấy không? Hay đó chỉ là nhưng lời sản sốt của một người đã mất quân bình? Thực ra, chúng ta đã mất đi niềm tin vào quyền lực đó, tâm thức về trách nhiệm ấy. Sự hiện hữu của toàn thể tạo thành tuỳ thuộc vào lời kinh của chúng ta. Chắc chắn Chúa không làm tất cả đâu, nhưng những gì Ngài làm, Ngài làm tuỳ theo lời cầu nguyện của kitô-hữu. Chính lời cầu nguyện của chúng ta tháo gỡ quyền năng vô biên của Chúa cho mọi người. Mãnh lực của lời cầu nguyện của linh mục trên quả tim của Chúa được khơi nguồn từ đó: đó là quyền lực của Hiền Thê có đủ mọi quyền hành trên quả tim của Phu Quân mình.
Đó chính là giáo thuyết đã khơi nguồn cho việc canh tân lời nguyện phụng vụ. Những lời nguyện đặc biệt kèm theo những giờ kinh ngợi và kinh chiều, và mang lấy những ý nguyện hết sức bao la, đưa linh mục đến việc chuyển cầu cho tất cả nhân loại, cho tất cả tạo thành. Lời nguyện giáo dân trong thánh lễ, những kinh nguyện kèm theo các giờ kinh sẽ mất hết ý nghĩa nếu Giáo Hội không ý thức rằng tất cả ơn cứu rỗi toàn thể nhân loại tuỳ thuộc vào lời nguyện của mình. Giáo Hội thực sự có trách nhiệm ấy: trong kinh nguyện, một hoạt động duy nhất mà Chúa đã hứa ban một hiệu năng thực tiễn. Chúng ta phải nắm tất cả tạo thành trong tay ta để hiến dâng nó cho Chúa. Và chính trong lời kinh nguyện của chúng ta, tạo thành còn tồn tại, nhưng lại đổi mới trong ánh sáng và trong vinh quang của Chúa.
15: Chức vụ vương giả của chức tư tế
Chúng ta hãy suy niệm về chức vụ vương giả của chức tư tế.
Việc thi hành chức vụ mục tử chỉ có thể là một việc yêu thương: yêu Chúa Kitô và yêu các linh hồn. Có lẽ không cần phải nhắc lại rằng, nơi các giáo phụ, chức vụ mục tử được gồm trong ánh sáng của chương 21 của Tin Mừng thánh Gioan. Trong quyển thứ hai của sách đề cập đến chức linh mục của thánh Gioan Kim Khẩu, trong các diễn từ của thánh Augustinô nhân ngày kỷ niệm tấn phong Giám Mục của ngài đã giải thích câu nói của Chúa Giêsu khi trao cho Phêrô quyền ưu việt: “Ximon, con ông Gioan, con có yêu mến thầy hơn những người này không?’ Không thể thi hành hoạt động mục vụ nếu không yêu mến Chúa Kitô. Chính quyền bính và hiệu năng của quyền bính ấy bắt nguồn từ tình yêu ấy. “Con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Tình yêu nào được đòi buộc? Thánh Augustinô đã nhấn mạnh và giải thích. Hãy suy ngắm chăm chú những gì kèm theo ba lần Phêrô đã tuyên xưng tình yêu của mình với Chúa Kitô: việc loan báo tử đạo. Không phải một thứ tình yêu nào cũng được, một người mang lấy nhiệm vụ chăn chiên phải yêu và yêu đến chết vì Chúa. Vì tình yêu của mục tử là tình yêu của một người ban mạng sống cho đoàn chiên. Như thế, việc loan báo cái chết của thánh Phêrô bao gồm đòi hỏi phải bắt chước Chúa Kitô, cho đến chết.
Dù vậy, việc tử đạo của Giám mục không chỉ là tình yêu của ngài đối với Chúa mà thôi. Có một bức thư tuyệt hảo của thánh Augustinô gửi cho một giám mục của một thành phố bị quân Vanđan vây hãm. Giám mục ấy viết thư hỏi thánh Augustinô có nên bỏ thành để tránh cái chết không, vì nếu chết thì đàn chiên sẽ bơ vơ. Thánh Augustinô trả lời: cái chết không đáng kể, điều đáng kể là sự hiệp nhất của chủ chăn với đàn chiên mình: chủ chăn phải ở lại với đàn chiên, dù phải liều mạng. Nói cách khác, Giám mục không có trách nhiệm gì đối với bản thân nữa, vì ngài không còn thuộc về mình nữa. Nếu một người tín hữu có bổn phận không được liều mình chết tử đạo vì như thế là thử thách Chúa, nhưng một Giám mục không được làm như thế, vì Giám mục không chịu trách nhiệm về mình nữa mà về dân mình. Giám mục không được trốn tránh, cũng không được ước ao chết tử đạo: như thế là tìm mình. Ngài cũng không được ao ước chết tử đạo như một bằng chứng của tình yêu ngài đối với Chúa Kitô. Vì tình yêu của ngài đối với Chúa Kitô không tách rời khỏi tình yêu ngài phải có đối với tín hữu. Ngài đã tự hiến cho Chúa rồi trong khi tự hiến cho Giáo Hội, ngài không có quyền lấy lại của Giáo Hội với lý do là cho Chúa Kitô. Nhiệm vụ của ngài là sống hoàn toàn việc tự hiến cho Giáo Hội và chia sẻ thân phận của Giáo Hội.
Tình yêu đối với Chúa Kitô mà một mục tử phải có là một tình yêu thiết thực, không chỉ là tình cảm, vì Chúa gọi ngài vào một thừa tác vụ ràng buộc ngài đến chết và huy động tất cả mọi khả năng của ngài, lý trí và ý chí ngài, kể cả thân xác ngài, vì thân xác ngài cũng phải chấp nhận mọi nhọc mệt kham khổ.
Chúng ta không được hiến dâng nửa chừng. Đây chính là một tình yêu cá biệt, một tình yêu kén chọn: “Con có yêu Thầy hơn những người này không?” Đây là một tình yêu vượt trên mọi tình yêu khác. Yêu đàn chiên không thay thế được việc yêu Chúa Kitô; nó giả thiết tình yêu ấy. Điều này áp dụng cho mọi người, nhưng đặc biệt là cho chúng ta. Và như thế, Giám mục bị ràng buộc trước hết với Chúa Kitô trong một mối tình thâm sâu và sống động. Trước khi sai các môn đệ, trước khi trao cho họ trách nhiệm cai quản Giáo Hội, Chúa Giêsu đã giữ họ kề bên Ngài, đến nỗi trước khi chịu nạn, Ngài có thể nói: “Chúng con đã ở với Thầy luôn trong mọi thử thách” (Lc 22,28). Giữa các môn đệ với Chúa, có một tình nghĩa êm đềm, tế nhị và liên tục liên kết họ với Chúa Kitô. Chúng ta không thể thi hành chức vụ mục tử đối với đàn chiên Chúa, nếu chúng ta không yêu Ngài một cách đặc biệt: nếu không như thế, chúng ta chỉ là những công chức hay người làm mướn mà thôi. Chắc chắn, điều đó có thể xảy đến cho một Giám mục hay một linh mục, và như thế là phản bội! Chúa đã muốn rằng không một linh mục nào có thể thi hành chức vụ mục tử một cách hiệu năng nếu không vì yêu. Ngài phải yêu Chúa mình và là Thầy mình để có thể yêu đàn chiên đã được trao phó cho Ngài, vì đàn chiên ấy là đàn chiên của Chúa Kitô.
Nếu linh mục không muốn phản bội Giáo Hội, ngài phải yêu mến Chúa Kitô với một tình yêu cá biệt và tuyệt đối. Ngài phải nhìn thấy sự tín nhiệm và tình yêu bao la của Chúa Kitô đối với ngài. Chúa Kitô đã yêu đàn chiên Ngài hơn chính mình Ngài, vì Ngài đã liều mạng cho nó và chính đàn chiên ấy, Chúa Kitô đã trao lại cho linh mục của Ngài! Làm sao chúng ta có thể hiểu những điều ấy mà không cảm thấy phải đền đáp một tình yêu thành thật đối với Chúa Kitô và bằng một tình yêu thiết thực đối với đàn chiên được trao phó cho chúng ta?
Hãy yêu mến Chúa Giêsu. Hãy yêu thương dân của mình.
Chức tư tế của Chúa Giêsu là độc nhất, quyền giáo huấn cũng độc nhất, nhưng chúng ta tham dự vào đó bằng cách hiện thực nó cho thế giới. Tình phụ tử của Chúa cũng độc nhất, nhưng chúng ta được dự phần vào đó, tình yêu ấy trở nên hữu hình nơi chúng ta. Chớ gì tình yêu phụ tử của Ngài được hiện thực nơi chúng ta! Tình yêu của một linh mục đối với những người Chúa đã trao phó cho mình là một tình yêu tham dự vào tình yêu của Chúa Kitô. Hơn một tình bằng hữu, nó là tình yêu phụ tử, tình yêu của một người cha. Tình yêu này thông truyền sự sống, và không bao giờ thiếu kém, ngay khi con cái – như đứa con hoang trong Tin Mừng – lìa bỏ cha mình. Tình yêu trung thành, tình yêu lan rộng đến mọi người và hơn hết, đối với những người yếu kém, những người nghèo cực túng thiếu, những người mà thế giới loại trừ ruồng bỏ.
Như thế, việc kết hiệp với Chúa Kitô cho chúng ta thông phần vào tình yêu của Ngài đối với mọi người.
Chúng ta phải yêu thương mọi người và tình yêu ấy đòi buộc chúng ta phải biết họ. Chúa Giêsu đã nói trong chương 10 của Tin Mừng Gioan: mục tử nhân lành biết từng con chiên một và kêu chúng bằng chính tên của chúng. Không có sự hiểu biết ấy, tình yêu như trở thành trừu tượng mông lung. Nó không đạt đến từng người trong sự cá biệt của họ, trong những điều kiện thực tế của cuộc sống họ, nó không đáp ứng lại những vấn đề của họ. Đàng khác, chính tình yêu làm cho chúng ta hiểu biết thực sự. Vì tình yêu không thể bằng lòng với một sự hiểu biết khách quan và bề ngoài, nhưng đạt đến tận thâm tâm của con người.
Mục tử sống cho các linh hồn mà Chúa đã trao phó cho mình. Ngài biết mỗi con chiên từng tên một và yêu thương mỗi con trong những đặc tính cá biệt của nó. Nếu chúng ta thương nhau, chúng ta sẽ chấp nhận rằng những người khác không giống y như chúng ta: đó là cái gì khó nhất, nhưng đó mới là cần thiết, vì đó chính là điều kiện của tình yêu. Chúng ta đừng nói rằng người khác giống chúng ta, vì lúc ấy chúng ta sẽ yêu mình và sẽ sống cô đơn một mình.
Khi người ta sợ người khác, người ta đòi hỏi người khác phải giống mình, lúc ấy, chúng ta chỉ có quanh mình những người cộng sự vô dụng mà thôi. Trong Giáo Hội, Chúa đã muốn cho Đức Bênêđictô XV kế vị Đức Piô XI, và Gioan XXIII kế vị Đức Piô XII. Các Giáo Hoàng ấy chỉ có chung một điều là tình yêu Chúa Kitô và việc phục vụ Giáo Hội, nhưng chính trong sự khác biệt của tính tình, và nhưng ân huệ của Chúa mà Giáo Hội được phục vụ nhiều hơn. Khốn cho ai muốn cho mọi người giống y như chính mình. Ai không biết nhìn người khác là người khác thì không thể phục vụ Giáo Hội. Phải chấp nhận người khác với những ân huệ riêng của họ, không đòi hỏi họ phải suy nghĩ với đầu óc của ta hay hành động với những thể cách của ta, khi họ đều sống trong cùng một đức tin vững mạnh và một tình yêu thanh trong đối với Giáo Hội. Chớ gì mỗi người đều lớn lên tuỳ theo ân huệ Chúa ban cho họ. Muốn cho mọi người đều được đóng ấn như nhau tức là phế bỏ sự cộng tác của nhiều tài năng phong phú nhất và mãnh liệt nhất, là dập tắt tài năng của những người yếu kém và làm cho họ nên bất lực để phục vụ thật sự. Phải biết chấp nhận kẻ khác là kẻ khác, như thế họ cảm thấy được yêu thương và được tín nhiệm và họ sẽ tỏ ra xứng đáng với sự tín nhiệm ấy. Nếu chúng ta đòi hỏi họ phải được đúc theo một khuôn mẫu duy nhất, họ sẽ không cảm thấy là con cái nhưng là nô lệ, và họ chỉ mơ mộng một ngày nào đó đẩy chúng ta đi.
Tất cả các chủ chăn đích thực đều biết chấp nhận tha nhân, nhưng phải nhìn biết nơi họ những gì là thiện hảo, thiết thực, những gì có thể phong phú cho Giáo Hội. Những người tuỳ thuộc chúng ta phải vâng lời chúng ta, nhưng sự vâng phục của họ sẽ càng phong phú nếu nó là một sự tự hiến thong dong và quảng đại và trong sự vâng phục ấy, họ có thể sống và thực hiện ơn gọi của họ. Tất cả những điều ấy rất hệ trọng.
Nhưng chúng ta phải có một tình yêu quảng đại, biết tha thứ. Chính tình yêu Chúa phải có trong ta. Như Chúa đã đối xử với chúng ta thế nào, chúng ta phải đối xử với mọi người như thế. Tất cả chúng ta đều thiếu sót, và chúng ta cũng lầm lỗi, tại sao chúng ta lại đòi buộc những người khác phải trọn lành? Tại sao chúng ta không giúp họ lấy lại tự tin và giúp họ đứng dậy và bước tới? Sự nghiêm ngặt không là đức tính của một vị chủ chăn hay đúng hơn, vị chủ chăn chỉ nghiêm ngặt đối với mình mà thôi. Đó là điều mà tôi luôn thán phục nơi Đức Hồng Y Dalla Costa, một cựu Tổng Giám Mục Giáo Phận Florence. Bên ngoài xem ra rất nghiêm nghị, Ngài giống như một vị tiên tri thời Cựu Ước, nhưng Ngài có một tâm hồn hết sức dịu dàng, và Ngài tôn trọng mọi người. Ngài nhút nhát, nhưng khi Ngài nói chuyện với ai, Ngài hết sức tế nhị và tín nhiệm người Ngài giao tiếp. Ngài biết chấp nhận và tôn trọng mọi người đến với Ngài. Trước mặt Ngài tôi cảm thấy mình nhỏ bé, nhưng tôi cảm thấy được yêu thương.
Ngài biết tôn trọng tự do của các linh mục của Ngài và giữa Ngài với các linh mục, một sự hiệp nhất rõ ràng đã được thiết lập. Khác biệt lẫn nhau, họ cảm thấy như một, vì họ đã ý thức được tính cách duy nhất của chức vụ linh mục của họ. Ngài dễ làm cho người khác lánh xa Ngài vì dáng vẻ kín đáo và nghiêm nghị đối với chính mình Ngài, nhưng mọi người đã yêu kính Ngài. Và tất cả mọi người, giáo dân cũng như linh mục dưới sự hướng dẫn của Ngài, đã xả thân cho việc phục vụ Giáo Hội trong khiêm nhượng đầy hiệu năng.
Biết thông cảm và chấp nhận người khác, biết tha thứ, không đòi hỏi nơi người khác những gì họ không thể làm được. Phải, chúng ta có thể đòi hỏi nơi mình tất cả, nhưng đối với người khác, chỉ những gì họ có thể cho mà thôi, không đòi hỏi quá khả năng của họ. Nhưng ước gì lòng yêu mến của chúng ta và sự tín nhiệm của chúng ta giúp họ cố gắng hơn; vì tình thương và tính nhiệm chữa lành sự chán nản, khích lệ can đảm, mở rộng các tâm hồn cho niềm vui.
Chớ gì tình yêu của chúng ta giúp họ lớn lên. Phải, chính tình yêu làm phát triển các tâm hồn. Vị chủ chăn phải phục vụ con chiên chứ không phải con chiên phải phục vụ chủ chăn. Tin Mừng đã dạy như thế. Không phải được vinh danh mà Thánh Thần đã chỉ định chúng ta điều khiển Giáo Hội Chúa, không phải vì danh lợi mà chúng ta được gọi để cộng tác vào việc cai quản dân Chúa: đây là một dịch vụ đòi hỏi chúng ta phải hoàn toàn hiến thân, trong một tình yêu trung thành và trong sáng tuyệt vời. Chớ gì đời sống của chúng ta được tế hiến từng ngày, trong khiêm nhượng và đơn sơ. Đừng đợi những dịp trọng đại, phải là gương mẫu của đàn chiên Chúa. Đừng tưởng mình không cần học hỏi thêm, và hãy cầu nguyện để được ơn tự canh tân mỗi ngày trong yêu thương…
Chớ gì tình yêu của chúng ta được trung thành, và sự trung thành được tạo nên bằng nhẫn nại. Hãy biết chờ đợi, hãy biết cậy trông. Tình yêu của Chúa đã tự mạc khải một cách tuyệt hảo trong cuộc tử nạn của Chúa Kitô. Các giáo phụ kêu mời chúng ta noi gương Chúa Kitô trong cuộc khổ nạn. Nếu tình yêu luôn luôn nhập thể trong sự khiêm nhường, việc nhập thể tối hậu của tình yêu được thể hiện trong đức nhẫn nại: nhẫn nại khi chúng ta không thấy kết quả của hoạt động của mình, vì lúc ấy phải chờ đợi một cách đơn sơ và không nản chí; nhẫn nại đối với mọi người; một sự nhẫn nại thường là đau khổ: không những vì con người không hiểu, chậm chạp và bất toàn, nhưng lắm khi vì họ không thành thật và đanh ác, thay vì họ giúp cho Nước Chúa Kitô được hiển trị, họ lại gây nên những chướng ngại và chống lại sự phục vụ khiêm tốn và lòng yêu mến Giáo Hội bằng những tham vọng đê hèn của họ. Ai được kêu gọi vào việc cai quản Giáo Hội Chúa cần phải sẵn sàng chịu đau khổ.
Tóm lại, việc thi hành chức vụ vương giả của việc cai quản thường kèm theo một việc tập luyện nhẫn nại khó khăn…nhưng dù sự chết cũng không giá trị bao nhiêu nếu chúng ta biết chết với yêu thương và vì yêu thương, như Chúa Giêsu đã chết.
16: Thể thức mục vụ mới
Chức vụ vương giả mang lại cho chúng ta quyền bính, dù chúng ta chỉ muốn sống chức vụ ấy như một dịch vụ. Vì thế, chúng ta đừng quên rằng, quyền bính được quy hướng về việc phục vụ, cũng thế, việc phục vụ giả thiết phải có quyền lực.
Ngày nay, người ta thường nhấn mạnh đến việc phục vụ, nhưng họ không muốn nói đến quyền lực – sự lãng quên ấy thường đến từ phía những người phải vâng lời. Dù vậy, chỉ có thể có việc phục vụ đích thực khi nó đến từ một quyền bính thực tiễn, cũng thế, quyền bính trong Giáo Hội chỉ được thi hành trong bác ái, tức là trong dịch vụ. Dịch vụ ấy giả thiết trước nhất tình yêu đối với Chúa Kitô và tình yêu đối với đàn chiên Chúa đã trao phó cho chúng ta. Chúng ta hãy suy nghĩ thêm.
Nếu chức vụ tiên tri đòi buộc một sự hiểu biết nào đó những “dấu hiệu thời đại”, điều đó càng đúng hơn đối với việc thi hành chức vụ mục tử. Thực ra, chức vụ tiên tri và chức vụ tư tế đúng nghĩa tuỳ thuộc vào những hoàn cảnh thực tế hơn là việc mục vụ. Việc rao giảng của Giáo Hội, tự nhiên, phải đáp ứng những nhu cầu riêng biệt của thời đại và các dân tộc, nhưng sứ điệp vẫn không thay đổi; và những gì liên can đến việc thờ phượng, việc canh tân phụng vụ luôn luôn được quy hướng về việc giúp giáo dân ý thức sự hiện diện thực thể của Huyền Nhiệm bất biến của Chúa Kitô, là Thiên Chúa muốn thông truyền mình cho thế giới.
Việc cai quản để phục vụ các linh hồn có chất thể dễ thay biến luôn, dù quyền lực nó giả thiết là một sự thông phần vào quyền bất biến của Chúa Kitô. Phải cai quản một Giáo Hội đang sống trong thời gian và điều khiển những người đang sống trong thời gian và thuộc về nhiều quốc gia khác nhau. Việc mục vụ đòi hỏi một cảm năng bén nhạy, một sự chú ý sống động đối với những vấn đề của mỗi lúc. Thật là một sự khốn khổ nếu Giáo Hội không hiểu biết thế giới trong đó Giáo Hội được sai đến, Giáo Hội sẽ không thể cai quản ai được vì hoạt động của Giáo Hội sẽ không thể đạt đến một cách cụ thể những người và những vấn đề thực tế và thay biến. Vì đó mà phải luôn luôn thay đổi cách thức và hình thức. Phải biết thích nghi với những gì làm thành đời sống con người.
Có thể nói rằng ngày nay phải có một cách thức mới của Giám mục và linh mục, thích nghi cho thế giới hôm nay không? Tôi tưởng rằng rất nhiều khó khăn Giáo Hội đang gặp phải đều do vấn đề này. Thực sự, cách thức mới này không thể tự tạo ra được, và chính Chúa sẽ cho chúng ta đúng thời, nhưng Ngài chỉ cho khi Giáo Hội cảm thấy nhu cầu và cầu xin Chúa ban cho mình. Mẫu Giám mục hay linh mục mới ấy sẽ đến từ những tâm hồn thánh thiện mà Chúa sẽ khơi lên trong lòng Giáo Hội và họ sẽ giúp Giáo Hội ngày mai như các thánh Charles Bôrômê và thánh Phanxicô Salê đã giúp Giáo Hội thời hậu Công Đồng Triđentinô.
Khuôn mặt của Giáo Hội ở mỗi thời đại tuỳ thuộc hơn hết – và tôi có thể nói là tuỳ thuộc tự bản chất – vào sự thánh thiện của con cái mình. Khoa thần học làm tôi khiếp đảm, và ngay cả việc mục vụ hôm nay, nếu các khoa ấy cho rằng mình là biểu tượng của sự sống của Giáo Hội mà đồng thời không mạc khải sự thánh thiện của Chúa Kitô, Thủ Lãnh của mình. Như thế cũng như con người kiểm soát Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa chiếm hữu mình. Chính các vị thánh đã cho Giáo Hội một khuôn mặt trong những thế kỷ đã qua. Không phải những luật lệ mang lại sự sống. Luật lệ chỉ giả thiết có sự sống mà thôi hay khơi lên một cách đau đớn nhu cầu về sự sống mà thôi. Israel đã được Lề Luật, nhưng chính Lề Luật đã làm cho nó ý thức sự bất trung của nó. Nhưng, khi ý thức tội lỗi của mình, Israel đã kêu cầu lòng từ bi Chúa và Chúa đã đáp lại lời cầu xin ấy của dân Ngài bằng cách sai Con Ngài đến. “Lề Luật đã được ban nhờ trung gian của Môsê, ân sủng và sự trung thành nhờ Chúa Giêsu Kitô”. Thánh Gioan đã nói như thế. Chính thế mà hôm nay, Giáo Hội của Công Đồng đang chờ đợi sự thánh thiện, là hồng ân của Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội Ngài và là dấu hiệu của sự hiện diện sống động của Đức Kitô trong thế giới. Tăng thêm luật lệ không đem lại kết quả tốt, vì điều đó có thể cho chúng ta ảo tưởng rằng không có gì khác phải làm nữa.
Đàng khác, tạo thêm nhiều luật lệ chỉ làm suy yếu đường gân của sự vâng phục mà thôi. Phải có nhiều đấng thánh, chúng ta phải xin Chúa ơn đó. Đó là một ơn trọng đại, Chúa chỉ ban cho khi chúng ta nài xin Ngài một cách khiêm nhường và tin cậy. Sự thánh thiện không tự tạo ra được, tất cả Giáo Hội không tạo nên một Bôrômêô, một Phanxicô Salê. Chúng ta nghĩ xem phải bao nhiêu thời gian để Giáo Hội có thể chuẩn bị và nhận lấy khuôn mặt cao cả của Đức Piô XII? Chính nơi Ngài, sự cao cả nguyên khối của chức Giáo Hoàng Rôma, như Công Đồng Vatican I đã chuẩn bị. Chắc chắn, Đức Piô XII không thể là Giáo Hoàng của Công Đồng Vatican II, trạng sư của cộng đồng tính của Giám Mục: Ngài là một Giáo Hoàng được chuẩn bị bởi một truyền thống đâm rễ sâu vào thời phục hưng của thánh Grêgôriô và đã được vững chắc trong Công Đồng Vatican I.
Các thánh của Vatican II sẽ như thế nào? Nhưng có lẽ Giáo Hội phải đau khổ nhiều trước khi có thể diễn tả sức mạnh và sự sống của mình nơi các thánh ấy, các vị thánh ấy sẽ là dấu hiệu của Giáo Hội trước mắt thế giới. Sự thánh thiện không thể ứng tạo được, nhưng tất cả chúng ta phải làm tất cả mọi sự để các thánh tươi nở lên.
Trước hết, chúng ta phải cầu xin Chúa ban cho chúng ta ân huệ đó. Nhưng chúng ta cũng phải học những văn kiện Công Đồng, vì Chúa đòi hỏi chúng ta cộng tác vào ơn của Ngài. Các văn kiện Công Đồng dạy chúng ta biết thánh ý Chúa: và Chúa chờ đợi chúng ta thi hành. Chân lý của mạc khải là một thứ chân lý được nhập thể trong thời gian, trong cuộc sống của mỗi người, trong những cơ chế và những cơ cấu của Giáo Hội. Nhiều người đã nói đến Vatican III, nhưng chúng ta chưa biết Vatican II đã dạy những gì. Phải suy gẫm những văn kiện Công Đồng, phải đồng hoá trong ta lý thuyết đó, làm sao cho chúng trở nên trong ta lời nói sống động và hiệu năng để tiếng nói ấy đi sâu vào tận thâm tâm con người và được nhập thể vào cuộc sống của các thánh. Nhiều người chỉ đọc thoáng qua mà đã tưởng mình biết tất cả. Đó là sự tự cao mà thôi. Phải để bao nhiêu thì giờ để đọc “Cuộc chiến thiêng liêng” của Scupoli? Chỉ cần một tiếng đồng hồ. Nhưng ai muốn sống những điều đó, phải hao mòn cả một đời người. Luôn luôn hấp tấp, chúng ta tưởng rằng chỉ cần đọc qua một văn kiện để có thể hiểu và áp dụng. Vừa đọc qua, mỗi ý tưởng được xem như đã cũ rồi; và chính vì thế mà Công Đồng Vatican II được xem như một di tích của thời xa xưa, vì chúng ta đã đọc những văn kiện đó rồi. Người ta nói: trong Công Đồng đã có một tiến bộ và một nhận thức thần học trước nhất đã nhường chỗ cho một nhận thức thần học khác trong những văn kiện sau. Nhưng tôi không chấp nhận ý tưởng là có một tiến bộ, thực ra, trong Công Đồng có một đa phức tính thần học nào đó. Vì người ta, với ý tưởng về sự tiến bộ, tìm cách ám chỉ rằng những văn kiện sau cùng của Công Đồng làm cho những văn kiện trước trở nên không vững chắc nữa, rằng những văn kiện trước, chiếu theo một nhận thức thần học khác, có thể sai lạc. Vậy thì Giáo Hội có thể thay đổi giáo thuyết của mình ngay trong Công Đồng sao? Vậy thì ai có thể tin tưởng vào quyền bính về giáo thuyết của Giáo Hội nữa?
Nhiều nhà thần học đã gấp rút chuẩn bị một Công Đồng mới rồi: nhưng từ ngữ chỉ đẻ ra nhưng từ ngữ và như thế mãi không cùng. Họ cho rằng nghiên cứu những gì đã nói rồi là vô ích. Sự mới mẻ thay thế cho chân lý, sự tự tin thay thế cho việc phục vụ Giáo Hội. Và những văn kiện Công Đồng sẽ ra thế nào nếu chúng ta ở trên những tiếng nói của các nhà thần học, với tính cách là tiếng nói của Giáo Hội? Công Đồng Triđentinô đã nuôi nền thần học trong suốt bốn thế kỷ, nhiều nhà thần học xem ra đã mệt chán về Vatican II mười năm sau khi bế mạc.
Việc suy gẫm và học tập cần thiết biết bao, trong một tình yêu Giáo Hội đích thực và một niềm tin sâu xa vào hoạt động của Chúa Thánh Thần, để phục vụ một cách thiết thực chân lý và sự thiện! Nếu chúng ta yêu mến Giáo Hội, chúng ta phải sợ làm cho những người hèn kém phải vấp phạm biết bao! Chúng ta cũng phải sợ gây nên sự rối loạn cho những người không còn nhìn biết khuôn mặt của Mẹ mình là Giáo Hội trong những cái mới mà chúng ta rao giảng cho họ hay chúng ta mang vào trong luật lệ của Giáo Hội!
Đối với tôi, tôi không bao giờ hồ nghi về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, hay về sự trợ giúp của Ngài cho Giáo Hội trong Công Đồng. Những người nào đi xa hơn Công Đồng để tìm những giải pháp mới, lãnh nhận lấy nguy cơ cho mình, vì trong Công Đồng, chính tiếng nói của Chúa được phát ra cho thời đại chúng ta và cả cho những thời sau này – vì lời Chúa luôn là lời tiên tri. Đó là một loan báo, đó là một lời hứa, đó cũng là một lề luật đang chờ đợi được thực thi. Đó là những gì, đối với tôi, là niềm tin vào sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần khi công bố những văn kiện Công Đồng.
Thực ra, chúng ta đang sống trong một thời đặc biệt. Nhưng đó là một lý do nữa để sống vâng phục Chúa Thánh Thần một cách khiêm nhượng vì chỉ có Ngài mới giúp chúng ta giải quyết các vấn đề. Phải, chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể giúp chúng ta giải quyết các vấn đề. Phải, chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể giúp chúng ta hiểu biết những vấn đề vĩ đại của thời nay và giúp chúng ta sống vừa như người của Thiên Chúa, vừa như người của thời đại chúng ta.
Cuộc đối thoại với thế giới đã bị tắt nghẽn, và chúng ta đã mất mối dây liên lạc với nền văn hoá của thời đại chúng ta. Linh mục bây giờ là con người của thời đại mình, vì ngài được sai đến với con người, vì ngài phải sống và làm chứng cho Chúa Kitô trong thời đại này. Sự bối rối mà con người cảm thấy khi đứng trước cơn khủng hoảng của Giáo Hội ý nghĩa hơn là ý thức của Giáo Hội về sứ mệnh của mình. Hơn bất cứ một hiện tượng nào, cơn khủng hoảng của Giáo Hội là điềm báo sự cáo chung của một thế giới. Và, sống trong thời gian, con người không thể thấy những gì sẽ nối tiếp sau sự cáo chung ấy. Người đời có thể chống đối Giáo Hội, nhưng họ không thể không cần Giáo Hội, vì không có Giáo Hội, họ sẽ chết. Sự cứu rỗi con người cũng là sự cứu rỗi mọi giá trị con người. Giáo Hội sẽ không thể cứu vớt con người nếu không biết đến nhưng giá trị đó, nếu không bảo vệ chúng. Giáo Hội phải biết và gìn giữ chúng. Giáo Hội phải khuyến khích và bảo đảm việc chuyển thông chúng qua thời gian.
Là nhân chứng và là một vòng xích của một truyền thống thần linh, trong đó những truyền thống sống động của con người đến tuôn tràn như trong một con sông rộng lớn hơn, chức tư tế kitô-giáo được kêu gọi để giúp con người sống còn, tiếp nối trong lịch sử đồng thời đem lại cho con người ơn cứu rỗi.
Dung hoà hai điều đó là một việc rất khó. Muốn là con người thời đại, tôi có thể không là con người của Thiên Chúa. Nhưng lắm khi, là con người của Thiên Chúa có thể hiểu là phải khép kín đối với thế giới và cắt đứt mọi liên hệ với con người. Cuối cùng, bi kịch của linh mục là đó: ngài phải vừa là người của trần gian vừa là người của thiên đàng, bị ràng buộc với trần gian và hiệp nhất với Thiên Chúa. Ngài không thể cắt đứt liên lạc với thời gian và cũng không được xa lìa cuộc sống vĩnh cửu. Nếu linh mục mất liên lạc với Chúa, ngài không còn nói được gì nữa, và ngài không thể cứu rỗi thế giới, nhưng nếu ngài không bị ràng buộc với thế giới, ngài không còn là linh mục nữa, và huyền nhiệm nhập thể không còn tiếp tục được nơi ngài nữa. Ngài có thể sống cho thiên đàng, nhưng như thế, ngài không thi hành chức vụ tư tế đòi buộc ngài phải hiện diện và hoạt động giữa loài người nữa.
Chúng ta cần phải rộng mở đối với tất cả những gì sống trong vạn vật, đối với tất cả những gì liên hệ thực tế đến sự sống con người. Khi buộc linh mục là một người hướng dẫn, chức vụ vương giả đòi hỏi ngài không được bỏ qua một cái gì để có thể sống gần gũi với con người của thời đại, để hiểu biết và yêu thương họ, để họ thực sự trở thành anh em với nhau.
Chúng ta phải rộng mở hơn nữa, nhạy cảm hơn nữa: nếu không, chúng ta tự giam mình và dần dần trở nên xa lạ với thế giới. Đối thoại cũng chưa đủ, phải có một cái gì hơn thế nữa. Vì đối thoại, nếu nó giúp chúng ta hiểu biết người khác hơn và có thể đi đến một sự thông hiệp huynh đệ hơn, cũng không cho phép chúng ta thi hành chức vụ vương đế của chúng ta. Chúng ta phải có khả năng đảm nhận tất cả những gì sống động và tích cực trong văn hoá, trong những đòi buộc xã hội và những trào lưu chính trị hiện nay, để kitô hoá tất cả. Chúng ta phải tìm đến tận gốc rễ kitô giáo của nếp sống con người và nối liền với Giáo Hội tất cả những gì đã bị cắt đứt qua bao nhiêu thế kỷ. Không những vì bị cắt đứt khỏi cung lòng của kitô giáo, tất cả mọi giá trị của con người có thể bị mất đi, nhưng vì chính sự sống của Giáo Hội sẽ bị nghèo đi vì mất hết những giá trị đó.
Như thế, chức tư tế kitô giáo phải nỗ lực hết sức. Vì chức tư tế chỉ thi hành chức vụ hướng đạo của mình giữa mọi người được khi đảm nhận tất cả mọi giá trị, không trừ một giá trị nào. Những gì các giáo phụ dạy vẫn có giá trị: Thiên Chúa chỉ cứu vớt những gì Ngài đảm nhận; nhưng Chúa lại đảm nhận mọi giá trị của thế giới nhờ Giáo Hội, trong đó, huyền nhiệm của Đức Kitô được tiếp nối và lan rộng ra. Chắc chắn công việc đó đòi hỏi một sự chuyên biệt về phương pháp và và về những công việc mục vụ, vì những vấn đề đang khẩn trương lại quá nhiều và quan trọng. Không ai trong chúng ta có thể làm tất cả mọi sự, vì đó là công việc của tất cả các linh mục và của toàn thể Giáo Hội.
Một vấn đề khẩn trương khác: là vấn đề phải tạo lại một công đoàn Giáo Hội đích thực, không bị ràng buộc với một vùng đất, một dân tộc hay một giòng giống nào. Kitô giáo không thể đồng hoá mình với một xã hội công giáo nào, vì xã hội công giáo không là Giáo Hội. Thực ra, Giáo Hội luôn luôn ở trong tình trạng tản mát (diaspora). Điều đó không cản trở gì cho việc thực hiện một cộng đoàn kitô giáo, vì cộng đoàn này do Chúa Thánh Thần quy tụ, và Thánh Thần vượt trên mọi chia rẽ và khoảng cách không gian. Trái lại, một cộng đoàn nào được thiết lập trên nền tảng của một vùng đất, một dân tộc hay một nền văn minh nào đều hàm hồ, cộng đoàn ấy không thể là dấu hiệu đích thực của Giáo Hội.
Thiết lập lại một cộng đoàn giáo hội đích thực trên những đổ nát của một xã hội kitô giáo, đó là cách sống giới răn mới. Thánh Thần sẽ vượt trên mọi phân cách, trên mọi khoảng cách không gian và Ngài sẽ thêu dệt giữa mọi người những mối liên hệ huynh đệ không giam hãm họ trong những nhóm riêng rẻ chống đối nhau nữa. Chúng ta không cùng chung tuổi tác, dòng giống nữa, mà là tình yêu, sự sống của Chúa.
Thế giới hôm nay đã gây ra những khó khăn cho mối liên hệ người với người. Nếu người ta thường nói đến cộng đoàn, chính vì họ đã cảm thấy nhu cầu rồi: cộng đoàn không còn nữa. Con người sống trong xóm làng, không biết đến người bên cạnh: tất cả những cuộc gặp gỡ đều bị loại bỏ. Cộng đoàn gia đình càng ngày càng bị lâm nguy. Phải, càng ngày càng khó sống chung với nhau, trò chuyện với nhau, lo lắng đến nhau. Tất cả mọi mối dây liên lạc trở nên lỏng lẻo. Sự hoài nghi bào mòn cuộc sống. Sự sống hình như không còn ý nghĩa gì nữa. Nỗi lo âu giam hãm mỗi người trong chính mình, làm cho họ không thể yêu thương được nữa. Làm như mỗi người chỉ còn có một ước muốn là lặng chìm trong một hoạt động quay cuồng không cho họ nhớ đến chính mình nữa, vì họ không thể chịu được cái khối nặng nề của chính cuộc sống của mình.
Trong thực tế, làm sao thực hiện một cộng đoàn kitô giáo, nếu tình yêu riêng biệt của mỗi người đối với anh em mình, nếu ước muốn của mỗi người muốn hiện diện với anh em không dệt nên những mối dây liên lạc? Thế giới hôm nay rứt chúng ta ra khỏi mọi ràng buộc, ra khỏi mọi truyền thống văn hoá, để chúng ta sẵn sàng sống cho yêu thương, nếu thực sự tình yêu sống động trong chúng ta. Được tình yêu thúc đẩy, chúng ta có thể thực sự hiện diện với anh em mình trong bất cứ nơi nào, bất cứ thuộc dòng giống nào. Chính tình yêu thúc đẩy chúng ta đi tìm họ nếu họ sống tản mát, chính tình yêu thiết lập với họ một liên hệ huynh đệ và thân ái.
Chúng ta cần phải cảm thấy cái nhu cầu đó, nhu cầu đi tìm con người thay vì đợi họ đến với ta.
Có lẽ chúng ta không còn ngạc nhiên khi thấy một Giám mục đi vào một cửa hàng trò chuyện với một cô bán hàng. Cô bán hàng không thể đến với Giám mục được. Khi một linh mục đi gặp gỡ người khác với tình yêu Chúa Kitô, khi gạt bỏ tất cả kiêu căng, không tìm cho mình một cái gì, lúc ấy người khác có thể tìm thấy Chúa Kitô. Lúc ấy họ sẽ không để ý, họ sẽ được giải thoát khỏi niềm khắc khoải lo âu và nỗi hoài nghi, họ bắt đầu tin tưởng lại và mở rộng cho tình yêu.
Phải, chúng ta phải tìm đến con người, dù việc ấy đòi hỏi chúng ta hi sinh. Đàng khác, sự hi sinh của chúng ta là hi sinh của tình yêu. Nó đòi hỏi những hành động thường là rất giản dị và rất thường tình, nhưng chính nhờ thế mà thừa tác vụ của Chúa Kitô có thể nhập thể vào thừa tác vụ của chúng ta và trở nên hiện diện giữa con người. Có lẽ Chúa Kitô không giống với một vị vua bị giam hãm trong cung điện của mình, nhưng giống như một người đăng trình trên khắp mọi nẻo đường để tìm gặp con người. Ngài không giống một vị vua thi hành quyền cai trị của mình, mà chỉ giống một người anh em chia xẻ nếp sống của mọi người. Sống trên đời nầy chính sứ mệnh của Chúa Kitô, chúng ta hãy noi gương Ngài. Như thế, một cái gì mới đang nảy sinh trong Giáo Hội Chúa.
17: Việc thi hành tối cao của chức vụ tư tế Kitô-giáo
Thánh Lễ là việc thi hành tối cao của chức vụ tư tế của chúng ta, vì Thánh Lễ cũng là hành động làm cho chức tư tế của Chúa Kitô hiện diện trong hiến tế vĩnh cửu của Chúa Con cho Chúa Cha. Chức tư tế của chúng ta giả thiết sự tồn sinh của con người chúng ta trong Ngôi Vị của Ngôi Lời nhập thể. Chỉ có một chức tư tế duy nhất mà thôi. Chúa Giêsu vẫn là Đấng duy nhất, Linh Mục vĩnh cửu của Tân Ước. Sự chết của Ngài không thể được lặp lại nhiều lần, Ngài vẫn sống mãi mãi, ngay cả trong bản thể nhân loại của Ngài, ngay cả trong hiến tế của Ngài cho Chúa Cha, trong yêu thương, là yếu tính của chức tư tế.
Có một sự tương tự giữa mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi – bản thể duy nhất, ý chí duy nhất cho Ba Ngôi, sự sống duy nhất–và mối dây liên kết tất cả chúng ta trong Chúa Kitô. Tương tự mà thôi, vì trong Chúa Kitô, không một thụ tạo nào có thể có được thiên tính. Chúng ta tồn sinh trong sự hiệp nhất của Nhiệm Thể, nhưng chúng ta không là Nhiệm Thể, đang lúc mỗi Ngôi Vị Thiên Chúa là Thiên Chúa nguyên vẹn, chỉ phân biệt với hai Ngôi Vị khác trong một liên hệ yêu thương vô cùng. Trong sự hiệp nhất của Chúa Kitô, mỗi người chúng ta tồn sinh như liên hệ yêu thương nhưng chỉ có Đức Maria mới thực hiện nơi Ngài, duy chỉ nơi Ngài mà thôi, huyền nhiệm của Giáo Hội, Trinh Nữ và là Hiền Thê. Dù vậy, nếu mỗi người chúng ta, tự mình, là Giáo-Hội-Hiền-Thê một cách nào đó, việc chúng ta là một với nhau trong Chúa KITÔ là một sự thật và cũng thế, chỉ có một Chúa Kitô mà thôi.
Tôi không thể nói đến việc noi gương Chúa Kitô mà không cải chính ngay. Không nên hiểu việc noi gương Chúa Kitô như là sao chép Ngài y khuôn, làm như Ngài có thể được nhân lên trong mỗi người chúng ta. Một việc làm như thế là một sự lộng thánh. Những người Hy lạp đã nói đến việc noi gương Thiên Chúa, nhưng họ không hiểu rõ thế nào là sự siêu việt. Đối với họ, trí óc con người là một mảnh nhỏ của thần linh và như thế, họ có thể nói đến việc noi gương Thiên Chúa của họ. Nhưng đối với chúng ta là Kitô-hữu, không thể nói đến việc noi gương Thiên Chúa. Chính Chúa đồng hoá chúng ta trong Ngài. Chính nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần mà việc nhập thể của Ngôi Lời được kiện toàn, cũng nhờ hoạt động đó mà huyền nhiệm đó được tiếp nối, và trở nên một thân thể duy nhất với Chúa Kitô, chúng ta sống sự sống của Ngài. Nhờ đó, việc noi gương Chúa Kitô trong Kitô giáo trở nên việc ở trong Chúa Kitô để sống nhờ Thánh Thần của Ngài. Con người không thể tự cao đến nỗi dám bắt chước Thiên Chúa, nhưng chúng ta, nếu chúng ta là một với Ngài, sự sống của chúng ta cũng là sự sống của Ngài. Nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần đang sống trong ta, chính Chúa Kitô hiện sống trong ta và sống qua trung gian chúng ta. Thánh Augustinô đã nói: Trong tất cả chúng ta, chỉ có MỘT người sống mà thôi.
Đó là cuộc sống hạnh phúc thiên đàng, sự sống trên trời, là sự sống của Chúa Kitô, là hành động yêu thương vô biên, nhờ đó Chúa Con tự hiến cho Chúa Cha đời đời. Đó cũng là cuộc sống của các thánh. Vì hành động của Chúa Con hiến mình cho Chúa Cha trở nên hành động của toàn thể nhân loại, được tham dự vào Con Chúa làm người, được trở nên một thân thể với Ngài. Chúng ta tham dự vào sự sống của Chúa Kitô, không phải trực tiếp vào sự sống của Thiên Chúa, vì chúng ta là một với Ngài trong bản tính con người mà Ngài đã đảm nhận không thể tách rời ra khỏi Ngôi Lời, và Ngôi Lời sống trong bản tính nhân loại ấy, sự liên hệ bản vị của Ngài với Chúa Cha. Chính chúng ta tham dự trong Chúa Kitô vào mối liên hệ ấy. Chúa Cha nhìn nhận chúng ta là con của Ngài, con của Ngài trong Người Con duy nhất, và chính trong tư cách là con mà chúng ta quay về với Chúa Cha để trở nên liên hệ tình yêu trong Chúa Kitô. Chính như thế mà Chúa Con, là Con Thiên Chúa, sống trong nhân tính, mối liên hệ của Ngài với Chúa Cha. Là mối liên hệ thuần tuý và vô biên của Chúa Con với Chúa Cha, trong bản thể thần linh duy nhất, Chúa Con “trở nên” mối liên hệ thuần tuý với Chúa Cha trong nhân tính. Đối với Ngài, hiện đang sống trong bản tính chúng ta, chính bản tính nhân loại liên hệ, trở nên liên hệ bản thể với Cha trên trời. “Cha Ta yêu các con” (Ga 16,27). Chúng ta không còn sống như người xa lạ trong nhà Cha nữa, mà nhờ Chúa Kitô, chúng ta từ nay, sống trong chính cung lòng của Chúa Cha, trong bí nhiệm không ai khám phá của Huyền Nhiệm Ba Ngôi.
Sau cùng, Chúa Kitô là một, sự sống của chúng ta chỉ là sự sống của Ngài, tình yêu và lời ca tụng của Ngài, như được sống trong một sự tham dự khác nhau tuỳ theo mỗi người. Vì nếu mỗi Ngôi Vị Thiên Chúa được tất cả thần tính, trong huyền nhiệm Kitô giáo mỗi người sẽ tham dự vào sự sống của Chúa Kitô tuỳ theo mức độ đức ái của mình. Mỗi người chúng ta không sống bằng gì hơn là sự sống của Chúa Kitô, nhưng chỉ sống trong một mức độ nào đó thôi. Và mức độ ấy chính là đức ái. Đức ái là nhân đức làm cho chúng ta thực sự nên MỘT với Ngài và hơn nữa, làm cho chúng ta trở nên Giáo Hội, Hiền Thê của Ngài, một cách nào đó. Đúng thế, mỗi người chúng ta, một cách nào đó, là tất cả Giáo Hội, và như thế, chúng ta sống mối liên hệ của Chúa Kitô với Cha Ngài khi chúng ta là một với toàn thể Giáo Hội trong một mức độ nào đó.
Thánh Lễ là việc thi hành tối cao của chức tư tế khi nó bao gồm sự tham dự của con người vào hiến tế vĩnh cửu của Chúa Con duy nhất cho Cha Ngài. Hiến tế ấy trở nên hành động của cái chết trên thánh giá: quả thế, trong cái chết ấy, Ngôi Lời nhập thể đã tỏ hiện tình yêu của Ngài: “[…]” “nhưng để thế gian biết rằng Ta yêu Cha” […] (Ga 17,31). Hành động tối cao ấy đã trở nên một cách nào đó, sự sống của toàn thể nhân loại: một khi đã nên một với Chúa Kitô, và trong Chúa Kitô, trong một hành động yêu thương duy nhất, nhân loại tự hiến và được tế hiến.
Nhưng Thánh Lễ cũng là việc thi hành tối cao của chức tư tế khi nó là việc hiến dâng của Chúa Kitô cho con người và thực hiện sự hiệp nhất của nhân loại. “Hãy cầm lấy mà ăn, nầy là Mình Thầy sẽ bị nộp vì anh em”. Sự hiệp nhất của Chúa Kitô được kiện toàn trong việc hiến dâng hỗ tương và vĩnh cửu của Chúa Kitô cho tín hữu và của tín hữu cho Chúa Kitô, và hơn nữa, trong sự hiệp nhất với Chúa Kitô, của các tín hữu cho nhau. Bữa tiệc thiên sai là sự thông hiệp của Thiên Chúa với con người, chính là sự hiệp thông của các thánh với nhau. Mỗi người sống trong Chúa Kitô và Chúa Kitô sống trong mỗi người. Mỗi người trong mọi người và mọi người trong mỗi người: đó là Nước Chúa.
Khi uống cạn chén đắng, Chúa Giêsu loan báo rằng Nước Thiên Chúa ở giữa các ngươi (Lc 22,14-22). Đó là Vương Quốc của hiệp nhất, và sự hiệp nhất, thay vì phá đổ sự phân biệt giữa con người, lại giả thiết sự phân biệt ấy. Vì, sự hiệp nhất yêu thương giả thiết phải có người yêu và người được yêu.
Như thế, Nước Chúa đã được thể hiện một cách nào đó trong việc cử hành Thánh Lễ. Khoa thần học cũ xưa vẫn không sai lầm: trong sự hiện thực ấy, mục đích đã được thực hiện rồi và một cách mầu nhiệm. Việc có trước và sự hiện diện, trong huyền nhiệm của thời chung thẩm, Thánh Lễ là việc kiện toàn mọi sự.
Thiên Chúa chỉ có thể sống chính mình. Nếu chúng ta không là Thiên Chúa, chúng ta không thể vào thiên đàng. Vào thiên đàng có nghĩa là tham dự vào sự sống của Thiên Chúa. Sự sống của Thiên Chúa là sự sống của Chúa Ba Ngôi: sự sinh sản vĩnh cửu của Chúa Cha sinh ra Chúa Con, sự tự hiến vĩnh cửu của Chúa Con cho Chúa Cha trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần. Chúng ta thông dự vào sự sống của Chúa vì chúng ta sống sự sống của Chúa Kitô. Chúa Kitô đã thực hiện sự hiệp nhất với mọi người bằng cách đảm nhận bản tính của mọi người, với tất cả những trách nhiệm cá nhân của họ, trong hành động hiến tế của Ngài. Chính trong hành động ấy, về phía chúng ta, nhờ Chúa Kitô Cha mọi lời ca tụng và mọi vinh quang. Không có sự sống thần linh nào ngoài sự sống thần linh mà chúng ta sống trong việc hiến tế ấy: chúng ta dâng chính Con Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã thực sự ban cho chúng ta chính Con yêu dấu của Ngài, nhưng Ngài chỉ cho là để nhận lại từ nơi chúng ta. Chúa Cha làm sao có thể xa lìa Chúa Con được? Khi Ngài cho chúng ta Con Ngài, Ngài đem chúng ta vào sự sống thâm sâu của Ngài. Ngài cho chúng ta tham dự vào Huyền Nhiệm của Ngài. Và điều đó được thực hiện vì, khi ban cho chúng ta Con Ngài, Chúa Cha cho chúng ta được quyền hiến dâng Con Ngài và chính thế mà Ngài nhận Con Ngài từ bàn tay chúng ta.
Cả vũ trụ nầy, tất cả lịch sử nhân loại có nghĩa lý gì đứng trước hành động thực đơn giản ấy là Chúa Con trở về với Chúa Cha? Đúng thế, Chúa Cha nhận Chúa Con từ nơi chúng ta. Chính từ chúng ta, một cách nào đó, Ngài tự đòi hỏi chính mình, từ nơi chúng ta, Ngài lãnh nhận chính mình. Và chính trong hiến tế ấy của Chúa Con, trở thành hiến tế của chúng ta, mà chương trình của Chúa muốn cho chúng ta tham dự vào sự sống thâm sâu của Ngài được kiện toàn.
Đúng thế, Chúa Cha nhận lãnh Con Ngài từ bàn tay tôi, vì Ngài đã cho tôi Con của Ngài. Thánh Gioan Thánh Giá đã cầu nguyện: “Trời là của tôi, đất là của tôi, các thiên thần và các thánh là của tôi, Mẹ của Chúa là của tôi vì Chúa Giêsu là của tôi, vì Ngài là tất cả cho tôi”. Đó là sự thật. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta chính Con của Ngài.
Thiên Chúa là tất cả cho chúng ta và Ngài là của chúng ta, và chính vì lẽ ấy mà Ngài kết hợp chúng ta với Ngài một cách vĩnh tồn. Đó là huyền nhiệm Kitô giáo: Con Thiên Chúa xuống với chúng ta để lên với chúng ta tới Chúa Cha. Đó là việc sinh sản thần linh được kéo dài, nhưng một sự kéo dài trong đó, Con Thiên Chúa trở nên con của loài người. Chính là sự hiến tế vĩnh cửu của Chúa Con, nhưng trong việc hiến tế nầy, Chúa Con đem về cho Chúa Cha tất cả nhân loại, tất cả tạo thành. Và lịch sử cứu độ tìm thấy sự viên mãn trong hành động yêu thương vĩnh cửu và vô biên, chính hành động yêu thương nầy lại trở nên chính sự sống của thế giới được cứu chuộc, trong Chúa Kitô.
Sự hiến trao là thật, nhưng trong hành động chính nhờ đó nhân loại chấp nhận hiến vật ấy, nhân loại đưa trở về lại cho Chúa Cha nhờ hy tế. Chúng ta chỉ nhận lấy Ngài là để hiến dâng Ngài cho Chúa Cha. Đây không phải là một hành động khác hay tiếp nối nhau: Chính là một hành động yêu thương vô biên của Thiên Chúa thông chuyển chính mình cho thế giới. Đồng thời cũng là hành động của toàn thể nhân loại, trong Chúa Kitô, trở lên với Chúa Cha, yêu mến Chúa Cha, sống trong Ngài. Và như thế, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần, huyền nhiệm của Chúa Kitô được kiện toàn.
Đó là Thánh Lễ: sự kiện toàn của huyền nhiệm. Trong lúc bây giờ, chúng ta sống dưới bức màn của nghi thức, ngày mai, chúng ta sẽ sống mầu nhiệm ấy trong vinh quang. Nhưng sự sống trên trời cũng không khác gì hơn sự sống chúng ta sống hôm nay trong đức tin, khi cử hành Thánh Lễ. Đây không phải là sự công bố một chân lý mà thôi đâu, mà sự công bố ấy thực hiện huyền nhiệm vì nó hiệu nghiệm. Chúa Kitô hiện diện trong sự hiện diện của hết mọi người là một thân thể duy nhất của Ngài. Chúa Kitô hiện diện trong việc thi hành một chức vụ vương giả vẫn tiếp tục quy tụ chung quanh Ngài toàn thể nhân loại và tất cả tạo thành. Nhưng Chúa Kitô, trong sự hiệp nhất bao gồm tất cả nhân loại, hiện diện trong chính hành động của tình yêu vô biên của Ngài đối với Cha Ngài. Trong hành động yêu thương vô bờ ấy, sự sống của Chúa Kitô được hoàn tất và đồng thời sự sống của thế giới cũng được hoàn tất, và tất cả mọi người đều tìm thấy nơi đó, sự hoàn hảo của mình và hạnh phúc vĩnh cửu của mình.
Chúng ta phải nỗ lực biết bao để sống chức linh mục của chúng ta, Thánh Lễ của chúng ta ! Dù ở thiên đàng, chúng ta cũng không sống gỉ hơn đâu ! Và trách nhiệm của chúng ta sẽ nặng nề biết bao nếu chúng ta không tìm cách, để mỗi ngày, trong đức tin và đức mến, chúng ta bớt phần bất xứng đối với chức vụ tư tế ràng buộc chúng ta mật thiết như thế với Chúa Kitô, Đấng cứu chuộc thế gian và là Con Thiên Chúa.
Lời kết
Chính sự cao cả của chức vụ linh mục của chúng ta phải đem lại cho chúng ta niềm tin cậy: chức vụ càng nặng nề, chúng ta càng chắc chắn về sự trợ giúp của Chúa. Chúa càng phải có mặt trong đời sống chúng ta.
Tại sao chúng ta lại bối rối lo sợ trước sứ mệnh vô giới mà Chúa đã trao phó cho chúng ta? Bối rối tức là tưởng rằng, một khi đã chọn chúng ta vào giúp việc cho Ngài, Ngài bỏ mặc chúng ta. Trái lại, việc Chúa kêu gọi bao giờ cũng là một bảo đảm cho một sự trợ lực, là một hứa hẹn sẽ đem lại sự trợ giúp. Đàng khác, giữa con người được Chúa chọn và sứ mệnh được trao phó, không thể có một mức độ chung nào cả, cũng vậy, giữa công việc Chúa đang mong đợi nơi chúng ta và khả năng của chúng ta để làm công việc ấy. Một mình chúng ta chỉ tuyệt vọng mà thôi, và bị đưa vào thất bại, và thất bại càng bi đát khi ước muốn thành công của chúng ta càng nhiều. Giữa sự yếu hèn của chúng ta và những gì Chúa đòi hỏi, có một vực thẳm, và chính vực thẳm ấy làm cho chúng ta yên lòng.
Chúa lặp lại với chúng ta những gì Ngài đã nói với tất cả các tiên tri trong Cựu Ước và những tín hữu trung thành với Ngài trong Tân Ước: “Ta ở với ngươi”. Trong một hoàn cảnh bi thương của Giáo Hội giống như hoàn cảnh chúng ta đang sống đây, thánh Inhaxiô đã nghe một tiếng nói: “Ta ở với con”. Chúng ta hãy đi như chiên giữa sói, hãy đi với bàn tay không, không vũ khí nào ngoài tình yêu của chúng ta. Chúng ta đừng sợ thiếu thốn để chúng ta hoàn toàn mong manh và dễ bị thương tích. Chúng ta sẽ đau khổ. Chúng ta sẽ là nạn nhân của hận thù của thế giới, nhưng chúng ta sẽ không bại trận bao giờ. Chúa sẽ ở với chúng ta. Tôi không muốn hùng biện, tôi chỉ muốn nhắc anh em đến đức tin, vì không có đức tin, chúng ta không thể tiếp tục sứ mệnh của chúng ta. Nói rằng có thể đáp ứng những đòi hỏi của Chúa và những mong đợi của thế giới, nếu chúng ta không mang lấy quyền lực của Chúa là một kiểu ngây thơ. Nhưng kém tin cũng không là thực tế – lượng giá những vấn đề, phán đoán về sự nghiêm trọng của hoàn cảnh – nhưng là một sự kém tin vào Đấng đã kêu gọi chúng ta.
Không cần phải khôn ngoan lắm để hiểu rằng sự chênh lệch thật vô biên. Nhưng nếu chúng ta tự nguyện phục vụ Chúa không phải vì chúng ta tin cậy vào sức riêng của chúng ta, hay vào sự khôn ngoan thông suốt của chúng ta, hay vào một quyền lực nào khác, dù là quyền lực chính trị, kinh tế hay văn hoá. Chúng ta chỉ là bất lực mà thôi. Nếu Chúa không kêu gọi chúng ta, chúng ta có quyền nghi ngờ, nhưng khi chúng ta là linh mục của Ngài, khi Ngài đã trao phó sứ mệnh của Ngài cho chúng ta, không thể do dự gì nữa. Hoài nghi, chán nản là đắc tội. Và không có tội nào trọng hơn tội đó.
Phải phó thác cho Đấng đã chọn chúng ta: phải để cho Ngài chiếm hữu và sử dụng chúng ta theo ý Ngài. Dụng cụ không đáng kể, điều đáng kể là Quyền Năng tuyệt đối. Có thể Chúa đưa chúng ta ngang qua nhưng thất bại, vào một con đường không lối thoát, Chúa đòi hỏi chúng ta tin vào Ngài mà thôi. Hoài nghi là bằng chứng của sự kiêu căng. Chúng ta không thể hoài nghi Chúa được, chúng ta chỉ hoài nghi về mình mà thôi: và như thế, làm sao chúng ta dám cam đoan có thể đáp ứng những đòi hỏi của Chúa bằng chính sức riêng chúng ta? Thực vậy, nếu Chúa đã chọn tôi, Chúa sẽ sử dụng tôi để thực hiện chương trình của Ngài; nhưng Ngài chỉ cần một điều là tôi tin Ngài. Chúng ta đã dâng cho Chúa sự nghèo hèn và yếu đuối của chúng ta: chính nhờ những yếu tố đó mà quyền lực của Chúa sẽ hành động. Khi chúng ta tin cậy vào sức riêng mình, lẽ đương nhiên là Chúa sẽ để chúng ta hành động một mình. Nhưng sự yếu hèn của con người, dù đến mức độ nào chăng nữa, cũng không ngăn cản thánh J.M. Vianney, cha sở xứ Ars, góp phần, có lẽ hơn cả các giám mục thời bấy giờ, đem lại cho nước Pháp của thế kỷ vừa qua, một linh hồn Kitô giáo. Đúng thế, chính vị linh mục nhỏ bé đó đã đem lại một khuôn mặt đạo đức cho cả một quốc gia, đang nghiêng ngữa vì cuộc cách mạng.
Và cũng không cần phải có một đức tin tương đối với sứ mệnh của chúng ta, vì đức tin Kitô giáo không có mức độ: mức độ của nó chính là đối tượng của nó là Thiên Chúa.
Không bao giờ chúng ta tin đủ được. Chúng ta cần phải nhìn nhận rằng chúng ta vẫn không đủ niềm tin. Và chúng ta hãy nhớ rằng, nếu đức tin của chúng ta bất toàn hay kém khuyết, Chúa sẽ bị ngăn trở không thể cứu giúp chúng ta được, vì chính đức tin của chúng ta sẽ đo hiệu năng của công việc chúng ta làm.
Chúng ta lại phải lên đường, nhưng trong tin cậy và thành thật, vì Chúa ở cùng chúng ta.
Tôi nhớ một bài diễn văn của Đức Gioan XXIII vào những tháng đầu của triều giáo hoàng của Ngài, Ngài nói: “Nhiều người muốn làm tôi hốt hoảng. Đó là những tiên tri báo hoạ. Nhưng tôi không tin vào những vị tiên tri ấy, tôi tin vào Chúa. Chúng ta là Đa-vit chống lại Gô-li-át. Nhưng chỉ cần một nạng ná và tên khổng lồ bị hạ ngay”. Phải, chỉ cần một nạng ná là đủ. Hãy có đức tin đi đã, và đức tin sẽ biến đời sống chúng ta thành nơi Chúa dụng võ. Thánh Francoise Cambrini đã viết cho các chị dòng của Ngài: “Khó khăn! Khó khăn! Trò đùa trẻ con!”. Tâm hồn chỉ cần phó thác cho Chúa và để Ngài hoạt động. Việc cộng tác của chúng ta, chính là phó thác một cách khiêm nhường, đơn thành và vui tươi cho quyền năng vô biên của Chúa. Chúng ta hãy đi tới, đừng lo âu bối rối gì cả: Đấng đã kêu gọi chúng ta vẫn đi trước chúng ta. Chúng ta đừng nhìn lại sau lưng hay quanh ta. Chúa đã một lần gọi chúng ta, Ngài vẫn tiếp tục gọi chúng ta mãi. Nếu chúng ta lắng nghe lời Chúa, chúng ta sẽ nhận đủ sức mạnh để tiếp tục con đường của chúng ta một cách tự do và mau mắn.
Bây giờ ta phải nói gì với Chúa?
“Nếu là Thầy, xin truyền cho con đến với Thầy trên mặt nước”. Và Chúa Giêsu nói: “Đến đây!” (Mt 14,28).
Nguồn: giaophanmytho.net