BÀI 29: ĐỐI ĐÁP DẪN NHẬP VÀO KINH NGUYỆN THÁNH THỂ

I/ NGHI THỨC

Bắt đầu Kinh nguyện Thánh Thể, linh mục dang tay hát hoặc đọc: Chúa ở cùng anh chị em. Cộng đoàn đáp: Và ở cùng cha. Khi đọc tiếp: Hãy nâng tâm hồn lên, ngài nâng hai tay lên. Cộng đoàn đáp: Chúng con đang hướng về Chúa; linh mục vẫn dang tay đọc tiếp: Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta. Cộng đoàn đáp: Thật là chính đáng. Linh mục tiếp tục dang tay đọc kinh Tiền tụng, và khi kết thúc, ngài chắp tay, cùng với mọi người hiện diện hát hoặc đọc rõ tiếng: Thánh! Thánh! Thánh! (x. QCSL 79b). (QCSL 148).

II/ LỊCH SỬ – Ý NGHĨA

Tập quán đối đáp/đối thoại trước Kinh nguyện Thánh Thể trong kinh Tiền tụng bắt nguồn từ phụng tự Do Thái. Câu đầu và câu cuối của phần đối đáp giữa chủ tế và cộng đoàn là những công thức quen thuộc được thường xuyên dùng trong phụng vụ hội đường và đã có từ rất lâu đời. Chúng ta gặp thấy những lời tương tự như thế trong Kinh nguyện Thánh Thể của thánh Hippôlytô hồi đầu thế kỷ III (năm 215) cũng như trong các Anaphora / Kinh nguyện Thánh Thể của Đông phương.[1] Không lâu sau (năm 252), thánh Cyprianô cũng báo cáo rằng vị tư tế chuẩn bị tâm hồn anh chị em tín hữu trước Kinh nguyện Thánh Thể bằng vài lời dẫn nhập: “Hãy nâng tâm hồn lên,” và cộng đoàn đáp lại: “Chúng con đang để tâm hồn mình hướng về Chúa,” với chủ ý nhắc nhở họ không nên suy tưởng về điều gì khác ngoài Chúa (De Dominica oratione, chap. 31 [PL, 4, 557]). Thánh Augustinô quan tâm đặc biệt đến phần đối đáp này khi ngài thường xuyên trích dẫn chúng nhằm thúc bách các tín hữu hãy nâng tâm hồn lên với Chúa, Đấng đang ngự trên trời, “vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (Mt 6,21).  Phần đối đáp này như lời chào của chủ tế với cộng đoàn phụng tự nhằm nối kết và biểu lộ sự duy nhất của cộng đoàn, nói cách khác, là sự hợp nhất giữa chủ tế và cộng đoàn, trong lời tạ ơn long trọng dâng lên Thiên Chúa với tất cả tâm hồn hướng lên cao. Kinh nguyện Thánh Thể như thế là hành vi của toàn thể cộng đoàn.[2]

Hội Thánh dung nạp tập quán này để diễn tả lời tạ ơn của dân Kitô giáo dâng lên Chúa Cha. Qua việc đối đáp, chủ tế mời gọi cộng đoàn hợp ý với mình để dâng lên Thiên Chúa Kinh nguyện Thánh Thể, còn cộng đoàn thể hiện sự đồng tình nhất trí với chủ tế. Như vậy, Kinh nguyện Thánh Thể trở thành lời kinh của toàn thể cộng đoàn chứ không chỉ của riêng chủ tế.[3]

Câu “Chúa ở cùng anh chị em” được sử dụng nhiều lần trong Thánh lễ, lời chào chúc này được một số nghi điển Đông phương mở rộng hơn dựa theo lời tán tạ của thánh Phaolô, chẳng hạn phụng vụ Byzantin thay thế “Chúa ở cùng anh chị em” bằng câu “Nguyện xin ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em” (2Cr 13,13).[4] Riêng tại thời điểm này, lời chào chúc “Chúa ở cùng anh chị em” xác định rằng cả vị tư tế và dân chúng đều cần đến Thiên Chúa ở cùng khi họ chuẩn bị bước vào mầu nhiệm hy tế thánh của Thánh lễ. Không có Thiên Chúa, con người chẳng làm được gì (x. Ga 15,5).[5]

Câu “Và ở cùng [thần trí] cha” theo mẫu của thư thánh Phaolô: “Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần” (2Cr 13,13) và “Cầu chúc cho tâm hồn anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giêsu Kitô” (Pl 4,23), tuy đây không phải là lời chào gặp gỡ mà là lời chào tạm biệt.[6]

Câu “Hãy nâng lòng lên” (Sursum corda) là của riêng Kitô giáo và là một công thức phụng vụ được biết đến sớm nhất. Nó được lấy từ sách Ai Ca 3,41: “Hãy giơ tay và hướng lòng lên Đức Chúa, là Đấng ngự trên trời.” Trong sách Hiến Chế Các Tông Đồ (Constitutio apostolica – Book VIII), câu này là “Hãy nâng trí lên.” Còn trong Anaphora của thánh Giacôbê, câu này là “Hãy nâng trí và lòng lên.”[7] Khi đọc những lời này, chủ tế còn nhấc cao tay ngài lên như muốn mời gọi cộng đoàn hãy mở rộng tâm hồn cách thích hợp và gạt bỏ mọi thứ lo lắng quan tâm khác mà chú tâm một cách trọn vẹn, không chỉ theo nghĩa đen là trái tim mà còn đặt tất cả “trí khôn, linh hồn, tinh thần” vào những gì sắp diễn ra ngay trước khi đi vào Kinh nguyện Thánh Thể để họ có thể gặp gỡ được Thiên Chúa, bởi vì trái tim hay tâm hồn con người là nơi phát xuất ra mọi ý nghĩ, tình cảm và hoạt động.[8] Đây cũng là một đỏi hỏi con người phải có đối với Thiên Chúa, tức là yêu mến Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn” (Lc 10,27). Thánh Augustinô nhấn mạnh đến việc nâng tâm hồn lên là thái độ của người được phục sinh, họ hướng lên và chỉ tìm kiếm những thực tại trên trời – nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa – vì quê hương của họ ở nơi thiên quốc (x. Mt 6,21; Cl 3,1-3; Pl 3,20).[9]

Câu “Chúng con đang hướng về Chúa” (cùng với câu “Hãy nâng tâm hồn lên”) được tìm thấy trong các bài viết của thánh Cyprianô (thế kỷ IV). Theo ngài, “Hãy nâng tâm hồn lên” là lời mà mỗi Kitô hữu phải thưa lên trước mỗi kinh nguyện, vì muốn đọc kinh thì trước tiên, mọi tư tưởng xác thịt và trần tục phải lui đi và tất cả tâm tình phải hướng về Chúa mà thôi.[10] Trong các bài giảng của mình, thánh Augustino dạy rằng khi nghe vị tư tế xướng “Hãy nâng tâm hồn lên” anh chị em đáp lại “Chúng con đang hướng về Chúa” là nhằm xua đuổi những tư tưởng trần tục mà nâng tâm hồn mình lên tới thiên đình là nơi Thiên Chúa ngự trị (Sermo 227, 261, 263); thêm nữa, Kitô hữu có một gia sản cao quý ở trên trời và họ nên biết rằng điều này không được khiến chúng ta nâng tâm trí của mình lên trong sự kiêu hãnh, nhưng là để “nâng tâm hồn lên với Chúa” (Sermo 25). Câu “Chúng con đang hướng về Chúa” cùng với câu “Hãy nâng tâm hồn lên” như một vận hành của không chỉ lòng trí chúng ta mà cả cuộc sống của chúng ta quy hồi về Chúa và những sự thiêng liêng thánh thiện, đối nghịch với những gì mà thánh Phaolô gọi là thế gian và xác thịt. Cả hai câu như giúp chúng ta sẵn sàng tham dự vào Kinh nguyện Thánh Thể cũng như cử hành buổi phụng tự cách đích thực.[11]

Câu “Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta” muốn nói về những gì sắp diễn ra: đó là chúng ta sẽ dâng lên Chúa lời chúc tụng và tạ ơn vì công trình sáng tạo và cứu chuộc của Ngài. Câu này có lẽ mượn mẫu chúc lành trước bữa ăn của người Do Thái rồi đưa vào sử dụng trong phụng tự Kitô giáo nhằm diễn tả lời mời gọi cầu xin chúc phúc đặc biệt trên chén rượu chứ không chỉ là là lời cảm tạ chung chung.[12] Câu “Chúng con đang hướng về Chúa” và theo sau là câu “Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta” hàm ý rằng nếu tâm hồn chúng ta còn ở dưới đất, thì không xứng đáng để tạ ơn Chúa. Dĩ nhiên, lòng trí của ta không thể luôn luôn nghĩ tưởng về Chúa, nhưng chắc chắn và nên như thế, ít là luôn luôn nghĩ tưởng về Chúa vào giờ phút cao cả này.[13]

Bên Đông phương, thay vì nói ở thể xác định, một vài chủ tế đồi thành thể nghi vấn: “Chúng ta có cảm tạ Chúa là Thiên Chúa chúng ta không?” nhằm công khai làm rõ sự tán thành của cộng đoàn đối với những lời chủ tế đọc nhân danh họ cũng như xác định Kinh nguyện Thánh Thể thuộc về toàn thể cộng đoàn. Điều này phù hợp với chức năng của những lời đối đáp như thế trong phụng vụ Do Thái.[14] Tương tự như câu “Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta”, câu Chúng con cảm tạ Chúa …”  thực ra đã nằm trong kinh Vinh danh rồi và đó là tâm tình đáp lại Thiên Chúa rất phổ biến trong Kinh Thánh (Tv 18; 30; 66; 92; 95; 118; 100; 136; 138;  107;  Cl 2,17; 3,16-17; 1Tx 5,18; Pl 4,6; 1Cr 14,16; Ep 5,19-20) khi con người nhận ra những việc thiện hảo và công trình cứu chuộc mà Thiên Chúa đã thực hiện trong cuộc sống của họ. Nhưng lúc này chúng ta phải đặc biệt cảm tạ Chúa vì do quyền năng của Chúa Thánh Thần mà phép lạ bánh rượu biến thành Mình Máu Chúa Kitô sẽ diễn ra trước mắt chúng ta….[15]

 Nhận ra bao kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện, thật là phải lẽ khi chúng ta chúc tụng và tạ ơn Chúa dù rằng Chúa không cần chúng ta ca tụng, và những lời ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa (Kinh Tiền Tụng – Chung IV). Bởi thế câu tung hô “Thật là chính đáng” có nghĩa là Ngài thật xứng với muôn lời cảm tạ và chúc tụng từ nơi chúng ta như được thánh Phaolô nhắc đến: “Thưa anh em, chúng tôi phải luôn luôn tạ ơn Thiên Chúa về anh em: đó là điều phải lẽ” (2Tx 1,3); và cũng có nghĩa là chính sự công bằng/công minh/công chính của Thiên Chúa làm chúng ta nên thánh, nên công chính.[16] Lời đáp lại “Thật là chính đáng” còn biểu lộ sự hợp nhất thâm sâu giữa vị tư tế và cộng đoàn; biểu tỏ sự ưng thuận đồng tình của các tín hữu tham dự trước những lời hô hào của chủ tế; cũng như biểu lộ lòng ao ước của họ được cùng với chủ tế dâng lời tạ ơn Thiên Chúa.[17]

III/ SUY NIỆM

Hội Thánh mở đầu Kinh nguyện Thánh Thể tuyệt vời với lời mời gọi trang trọng: “Hãy nâng tâm hồn lên”. “Hãy nâng tâm hồn lên” với Chúa trong sự chúc tụng và tạ ơn. Lạy Chúa Giêsu, xin hãy nâng tâm hồn chúng con lên, vì chính bằng cả tâm hồn mình mà chúng con mới có thể thấy rõ những gì đã diễn ra trong Bữa tiệc ly. Chính bằng cả tâm hồn mình mà chúng con sẽ lắng nghe những lời tuyệt diệu và mầu nhiệm Chúa truyền đọc trên bánh và rượu. Chính bằng cả tâm hồn mình mà chúng con sẽ thành kính dõi theo những biến cố làm tan nát cả thân xác lẫn cõi lòng của Chúa trong hành trình từ vườn Giệtsimani đến dinh quan tổng trấn và rồi đi lên đồi Canvê.

Kinh tiền tụng của Kinh nguyện Thánh Thể công bố những kỳ công tạo dựng Chúa đã làm. Lạy Chúa, xin hãy nâng tâm hồn chúng con lên để chúng con biết cảm phục trước vẻ đẹp huy hoàng của vũ trụ, của những hình sắc và cảnh vật thay đổi qua các mùa trong năm, qua vòng tuần hoàn của thời gian trong ngày từ bình minh cho đến hoàng hôn. Xin để chúng con cảm nếm sự chói lóa của ánh sáng mặt trời và trải nghiệm sự nhớ nhung quá khứ mà hoàng hôn mang đến. Xin làm đầy giác quan chúng con bằng mùi vị của những chiếc lá bị đốt cháy, bằng sự mát mẻ của dòng nước mùa xuân và bằng hơi nóng gay gắt của mặt trời. Quả thực, vũ trụ như là một sân khấu mà trên đó vở kịch cứu độ của Chúa được trình diễn và đang tiếp tục được trình diễn suốt Thánh lễ.

Hãy nâng tâm hồn chúng con lên để chúng con cũng kinh ngạc trước những đường lối mầu nhiệm của Chúa. Nhờ những đường lối này mà Chúa đã quy tụ một dân riêng. Rồi Chúa đã được hạ sinh để thuộc về dân này và sinh sống giữa họ. Kinh tiền tụng kể cho chúng con về một câu chuyện. Đó là câu chuyện Chúa đã tuyển chọn một dân riêng của Chúa. Đó là câu chuyện về sự yếu đuối và phản bội của con người bên cạnh lòng thương xót vô biên của Chúa: con cái của Chúa đã phạm tội và xa rời giao ước, nhưng Chúa đã quy tụ họ về.

Trên hết mọi thứ, lạy Chúa, hãy nâng tâm hồn chúng con lên để chúng con có thể cảm nghiệm sâu sắc câu chuyện phi thường về chính Chúa khi mặc lấy xác phàm như chúng con. Trong chu kỳ của năm phụng vụ, kinh tiền tụng khai mở toàn bộ mầu nhiệm của Chúa, từ lúc Chúa nhập thể cho đến lúc lên trời, tiếp tục tới ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, và ngày Chúa sẽ ngự đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Vì thế, trong tiến trình của năm phụng vụ những chi tiết khác nhau trong câu chuyện vĩ đại của Chúa làm cho Kinh nguyện Thánh Thể thêm những dấu ấn và âm điệu khác biệt, giống như sự thay đổi phong phú đa dạng của âm nhạc về cùng một chủ đề.

“Hãy nâng tâm hồn lên”. Lạy Chúa, khi chúng con nhìn thấy cuộc đời thật buồn tẻ u ám như mây đen che lấp tầm nhìn của chúng con, xin hãy nâng tâm hồn chúng con lên và giúp chúng con xác tín rằng đằng sau những đám mây đó luôn luôn có ánh sáng mặt trời chiếu sáng. Khi chúng con đang trên bờ vực của tuyệt vọng, xin cho chúng con được luôn an tâm vững chí rằng vẫn có ánh sáng không bao giờ tàn lụi ở cuối con đường. Khi bóng tối bao phủ thế giới, xin làm cho chúng con tin tưởng rằng sẽ sớm có ánh bình minh của ngày mới xuất hiện khiến bóng đêm phải dần dà tan biến. Ngày thứ Sáu Tuần Thánh là một ngày sầu thảm, nhưng nó không kết thúc trong sự đau thương tuyệt vọng. Trái lại, ngày ấy mở đường cho niềm vui rạng ngời của Chúa nhật Phục sinh.

“Hãy nâng tâm hồn lên”. Khi chúng con nhắm mắt xuôi tay và nghỉ yên trong lòng đất sâu thẳm, xin hứa với chúng con, lạy Chúa, Chúa sẽ nâng chúng con lên chốn nghỉ ngơi vĩnh cửu trên thiên đàng. Nơi đây, chúng con sẽ được che chở mãi mãi trong vòng tay của Chúa. Amen.

[1]X. R. C. D. Jasper & G. J. Cuming, Prayers of the Eucharist: Early and Reformed, 3rd ed. (Collegeville: A Pueblo Book/The Liturgical Press, 1987/1990), 34, 46; G. Dix, The Treatise on the Apostolic Tradition of St. Hippolytus of Rome (London, 1937), XXXV-XXXVIII; Joseph A. Jungmann, SJ, The Mass of the Roman Rite: Its Origins and Development (Missarum Sollemnia), vol. 2, trans. Francis A. Brunner (New York : Benziger Brothers, 1951), 113.

[2] X. Peter E. Fink, ed. The New Dictionary of Sacramental Worship (Collegeville: The Liturgical Press, 1990), s.v. “Eucharistic Prayers” by Barry Ryan, 451-459.

[3] Ibid.; Nguyễn Thế Thủ, Phụng vụ Thánh Thể,120.

[4] X. Jerome Gassner, The Canon of the Mass: Its History, Theology, and Art (St. Louis/London: B. Herder Book Co., 1949), 106.

[5] Edward Sri, A Biblical Walk through the Mass, 96.

[6] Davit Power, “Theology of the Latin Text and Rite”, trong A Commentary on the Order of Mass of the Roman Missal, gen. ed. Edward Foley (Collegeville:  The Liturgical Press, 2011)259.

[7] X. Peter E. Fink, ed., The New Dictionary of Sacramental Worship (Collegeville: The Liturgical Press, 1990), s.v. “Anaphora” by Frank C. Senn, 46-47.

[8] Edward Sri, A Biblical Walk through the Mass, 96; Le Gall, La Mess au fil de ses rites, 139.

[9] X. Adoft Adam, Eucharistic Celebration: The Source and Summit of Faith72; Le Gall, La Mess au fil de ses rites, 138; Nguyễn Thế Thủ, Phụng vụ Thánh Thể,120-121.

[10] X. Jungmann, SJ, The Mass of the Roman Rite, 110; Nguyễn Văn Trinh, Phụng vụ Thánh lễ (Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2008), 373.

[11] Davit Power, A Commentary on the Order of Mass of the Roman Missal, 261-62.

[12] X. Johannes H. Emminghaus, The Eucharist: Essence, Form, Celebration,180; Kevin W. Irwin, Responses to 101 Questions on the Mass (New York/Mahwah: Paulist Press, 1999), 89.

[13] Jungmann, SJ, The Mass of the Roman Rite, 110.

[14] Kevin Seasoltz (ed), Living Bread, Saving Cup (Collegeville: The Liturgical Press, 1982), 115.

[15] Edward Sri, A Biblical Walk through the Mass, 98-99.

[16] Anscar J. Chupungco, OSB, The New English Translation of the Roman Missal (Malaybalay: Paul VI Institute of Liturgy, 2011), 44.

[17] X. Le Gall, La Mess au fil de ses rites, 141.